NGUYỄN VĂN TUẤN

Gãy xương và tử vong: một vấn nạn y tế cộng đồng

Nguyễn Văn Tuấn

Hôm nay là ngày 20/10, Ngày Phụ nữ (Women’s Day), và cũng là ngày Loãng xương quốc tế.  Chúng tôi muốn nhân dịp ngày này để nhắc một bệnh phổ biến ở giới nữ: loãng xương.  Ít ai biết rằng gãy xương, một hệ quả của loãng xương, làm giảm tuổi thọ ở cả nữ và nam.  Bài viết này bàn qua một số tiến bộ mới trong lĩnh vực loãng xương.

Ở người cao tuổi, gãy xương do chấn thương nhẹ như trượt chân bị té ngã trong khi đi bộ thường là một hệ quả của loãng xương.  Loãng xương xảy ra khi mật độ chất khoáng trong xương bị suy giảm và cấu trúc của xương bị tổn hại.  Những thay đổi này xảy ra ở mức độ vi mô, không phát sinh triệu chứng, cho đến khi xương bị gãy.  Tình trạng này cũng tương tự như một cấu trúc bị mục dần cho đến khi cấu trúc bị sụp.  Vì thế, loãng xương thường được ví von là một “căn bệnh âm thầm”.  Chính vì đặc điểm âm thầm này mà loãng xương là một trong những bệnh làm cho người cao tuổi rất quan tâm. 

Tuy xương nào cũng có thể bị gãy, nhưng những xương thường bị gãy là cổ xương đùi, xương chậu, xương cột sống, xương tay, và xương sườn.  Theo nghiên cứu của chúng tôi ở người da trắng, cứ 2 phụ nữ ở độ tuổi 50 thì có 1 người sẽ bị gãy xương trong quãng đời còn lại.  Ở Việt Nam chúng ta chưa có những dữ liệu này, nhưng nguy cơ ở người Á châu nói chung thấp hơn khoảng 30% so với người da trắng.

Nguy cơ gãy xương tăng dần với độ tuổi theo cấp số nhân, và thường xảy ra ở người cao tuổi (trên 60) hay phụ nữ sau thời kì mãn kinh.  Hiện nay, nước ta có khoảng 8% người trên độ tuổi 60, và con số này sẽ tăng lên 12% vào năm 2030.  Điều này có nghĩa là số ca gãy xương trong cộng đồng sẽ gia tăng nhanh, và là một gánh nặng cho nền y tế nước ta.  Ở Việt Nam, chúng tôi ước tính rằng mỗi năm có khoảng 102.000 nữ và 67.000 nam bị gãy xương; trong số này, số ca gãy cổ xương đùi là 19.000 nữ và 7.000 nam.

 

Gãy xương làm giảm tuổi thọ cho bệnh nhân.  Đã có khá nhiều nghiên cứu trong thời gian gần đây cho thấy những bệnh nhân bị gãy xương cột sống có nguy cơ tử vong tăng gấp 2 lần so với tỉ lệ tử vong trung bình trong dân số.  Tuy nhiên, gãy cổ xương đùi là một hệ quả nghiêm trọng nhất và nguy hiểm nhất của loãng xương.  Nhiều nghiên cứu trên thế giới, kể cả ở Á châu, gần đây cho thấy khoảng 20% nữ và 30% nam bị gãy cổ xương đùi chết trong vòng 1 năm sau khi xương bị gãy.  Trong số này, khoảng 5% nữ và 10% nam tử vong trong khi nằm điều trị ở bệnh viện.  

Bệnh nhân may mắn sống sót sau biến cố gãy cổ xương đùi thi bị hạn chế đi lại, và bị nhiều biến chứng khác.  Không chỉ bị hạn chế đi lại, những bệnh nhân đã bị gãy xương, nhất là gãy cổ xương đùi, thường hay bị gãy xương một lần nữa.  Chính vì thế và các biến chứng đi theo gãy xương, nên chất lượng cuộc sống các bệnh nhân này bị suy giảm nghiêm trọng, có nhiều trường hợp bị trầm cảm. 

Thời gian tử vong ở bệnh nhân gãy cổ xương đùi hàm ý rằng thời gian lí tưởng để điều trị cho bệnh nhân gãy cổ xương đùi là năm đầu tiên, hay tốt nhất là ngay sau khi gãy xương.  Cố nhiên, các bệnh gãy cổ xương đùi đều được điều trị bằng phẫu thuật trong bệnh viện, như thay thế khớp hay kết hợp xương, nhưng việc điều trị theo sau phẫu thuật cũng đóng vai trò quan trọng.  

Nhưng một xu hướng đáng báo động hiện nay là phần lớn bệnh nhân gãy xương không được điều trị.   Thật vậy, một thực tế đáng buồn là khoảng 70% bệnh nhân bị gãy xương không hề được điều trị sau khi phẫu thuật.  Ngay cả phần lớn bệnh nhân gãy cổ xương đùi sau khi được phẫu thuật cũng không được theo dõi và điều trị !

Hiện nay, những tiến bộ ngoạn mục trong thời gian 20 năm qua đã cho ra đời hàng loạt thuốc có hiệu quả giảm nguy cơ gãy xương.  Những thuốc này có thể chia làm 2 nhóm chính: nhóm ức chế tế bào hủy xương và nhóm kích thích tế bào tạo xương.  Trong nhóm đầu gồm có bisphosphonates (như alendronate, risedronate, zoledronate), SERM (raloxfene), calcitonin, v.v… Trong nhóm kích thích tế bào tạo xương gồm có thuốc strontium ranelate và teriparatide.  Tất cả các thuốc này đều đã được thử nghiệm nhiều và có hiệu quả giảm nguy cơ gãy xương khoảng 30% đến 50%.  Tuy nhiên, trong nhóm nay, chỉ có zoledronate được chứng minh là có hiệu quả giảm nguy cơ tử vong ở bệnh nhân sau khi bị gãy xương.  Một công trình nghiên cứu trên 7000 bệnh nhân loãng xương cho thấy zoledronate giảm nguy cơ gãy cổ xương đùi 41%, nhưng giảm nguy cơ gãy xương cột sống đến 70%.  Tuy nhiên điều đáng chú ý là zoledronate còn giảm nguy cơ tử vong 28%. 

Nhưng câu hỏi đặt ra là: nếu điều trị bệnh nhân gãy cổ xương đùi ngay sau khi phẫu thuật thì hiệu quả sẽ ra sao?  Một nghiên cứu trên 2100 bệnh nhân trên 75 tuổi đã có câu trả lời cho câu hỏu đó.  Trong nghiên cứu này, 1065 bệnh nhân bị gãy cổ xương đùi được tiêm zoledronate trong vòng 90 ngày sau khi phẫu thuật, và một nhóm 1062 bệnh nhân bị gãy cổ xương đùi nhưng không được tiêm zoledronate.  Sau gần 2 năm theo dõi, nhóm được điều trị bằng zoledronate (chỉ 1 liều một năm) giảm nguy cơ gãy xương lần thứ hai khoảng 40%, nhưng quan trọng hơn, giảm nguy cơ tử vong 30%.  

            Nhưng phòng bệnh hơn chữa bệnh.  Vấn đề quan trọng là nhận ra những cá nhân có nguy cơ cao để phòng bệnh, ngừa gãy xương.  Rất may mắn là trong vòng 20 năm qua đã có nhiều nghiên cứu chỉ ra nhiều yếu tố nguy cơ gãy xương.  Những yếu tố này bao gồm cao tuổi, mật độ xương suy giảm, tiền sử gãy xương, tiền sử gia đình có người gãy xương, thiếu calcium, thiếu vitamin D, hay bị té ngã, hút thuốc lá (nhất là đàn ông), lạm dụng bia rượu (đàn ông), v.v… Qua những yếu tố này các nhà nghiên cứu đã phát triển một số mô hình tiên lượng để đánh giá gãy xương cho mỗi cá nhân.  Các mô hình này đã được đưa lên mạng internet toàn cầu để bất cứ ai cũng có thể sử dụng được (xem Box). 

            Tuy nhiên, các mô hình tiên lượng gãy xương thường dựa vào dữ liệu nghiên cứu trên người da trắng.  Do đó, việc áp dụng các mô hình này cho người Việt Nam có thể không chính xác, bởi vì người Á châu nói chung có nguy cơ gãy xương thấp hơn người da trắng khoảng 50%.  Do đó, kết quả từ các mô hình này cần phải nhân cho một hệ số 0,5 cho người Á châu.  Những cá nhân có nguy cơ cao cần phải được xét nghiệm (đo mật độ xương), và nếu cần, phải được điều trị hay phòng ngừa thích hợp để giảm tình trạng gãy xương trong cộng đồng. 

Các website tiên lượng gãy xương

Mô hình của Tổ chức Y tế Thế giới

http://www.shef.ac.uk/FRAX/

Mô hình này sử dụng 12 yếu tố nguy cơ.  Người sử dụng chỉ việc nhập số liệu cá nhân, website sẽ cho kết quả tiên lượng xác suất gãy xương trong vòng 10 năm. 

Mô hình của Viện Garvan, Úc

www.FractureRiskCalculator.com

Sử dụng 5 yếu tố nguy cơ: tuổi, cân nặng, tiền sử gãy xương, chỉ số T, và tiền sử té ngã. Cũng như mô hình của WHO, mô hình này cho kết quả nguy cơ gãy xương và cổ xương đùi trong vòng 5 năm và 10 năm. 

 

 

Box 2. Những ca gãy cổ xương đùi nổi tiếng

 

Mẹ nữ hoàng Anh Elizabeth, cựu tổng thống Mĩ Ronald Reagan, và đức giáo hoàng John Paul đệ nhị có cùng một bệnh trạng: loãng xương.  Cả ba người cũng kinh qua một biến cố quan trọng trong đời: gãy cổ xương đùi.  Mẹ nữ hoàng Elizabeth bị gãy cổ xương đùi năm 1998 (lúc 98 tuổi). Bà qua đời 2002, thọ 102 tuổi. Năm 1992, Giáo hoàng John Paul đệ nhị cũng bị gãy cổ xương đùi do một sự trượt chân nhẹ.  Tuy nhiên, ông được điều trị tốt, và may mắn sống đến năm 2005.  Ronald Reagan là tổng thống thứ 40 của Mĩ. Ông cũng bị gãy cổ xương đùi vì té ngã vào năm 2001 (lúc đó ông đã 90 tuổi).  Sau 3 năm bị gãy xương, ông qua đời năm 2004, thọ 93 tuổi.

 

 

Box 3. Xét nghiệm và điều trị

 

Xét nghiệm mật độ xương là một phương pháp chuẩn để chẩn đoán loãng xương.  Hiện nay, ở Thành phố Hồ Chí Minh, một số bệnh viện lớn có các máy DXA (dual energy X ray absorptiometry) phục vụ cho việc xét nghiệm mật độ xương một cách chính xác.  Xét nghiệm mật độ xương hoàn toàn không xâm phạm hay đau đớn gì cả, bệnh nhân nằm trên giường một cách thoải mái để máy scan qua cơ thể và ước tính mật độ xương ở cổ xương đùi, xương đốt sống và xương toàn thân.  Ngoài ra, máy DXA còn có thể đo lường lượng mỡ và nạc trong cơ thể để tham khảo trong việc chẩn đoán béo phì.

Với những phát triển nhanh chóng của y học trong vòng 20 năm qua, ngày nay chúng ta có khá nhiều thuốc để điều trị loãng xương.  Các loại thuốc này đã được phát triển chủ yếu nhằm ức chế các tế bào hủy xương hay kích thích các tế bào tạo xương.  Một số thuốc thông dụng trên thị trường hiện nay là alendronate, risedronate, ibandronate, zoledronate, raloxifene, calcitonin, strontium ranelate, teriparatide, v.v…  Tất cả các thuốc này đã được thử nghiệm và kết quả cho thấy giảm nguy cơ gãy xương đốt sống.  Một số thuốc còn có hiệu quả giảm nguy cơ gãy cổ xương đùi.  Tuy nhiên, giá cả các thuốc này có khi rất khác nhau, và việc lựa chọn thuốc tối ưu còn tùy thuộc vào nhiều yếu tố lâm sàng, khoa học, và nhất là chi phí điều trị.

 

 

 


200 năm Darwin
Agent Orange: collateral damage
Alexandre Yersin và Việt Nam
Bàn về hiệu quả vắcxin: lâm sàng và kinh tế
Bàn về vấn đề dịch thuật và đánh giá năng suất khoa học
Béo phì ở người Á châu
Béo phì ở trẻ em và virus
Bình luận từ Dr. Yến
Bưởi không gây ung thư vú
Bảo hiểm y tế cộng đồng
Bảo tồn môi sinh: Chiến tranh giữa hai thế giới
Bằng chứng khoa học thay vì lên lớp
Bệnh tả: không để Việt Nam thành Bangladesh thứ hai
Bệnh tật nhìn từ quan điểm của thuyết tiến hóa
Bệnh xơ hóa cơ delta qua y văn thế giới
Bổ sung kẽm và điều trị bệnh tả
Bộ gen trong cây lúa và triển vọng
Bộ Y tế phản ứng chậm với rét đậm
Chiều cao của người Việt
Chiều cao và tổng thống Mĩ
Cholesterol và bệnh Tim
Cholesterol: hung thần hay bạn?
Chuột và... các nhà khoa học
Chính sách y tế cần dựa vào bằng chứng khoa học
Chạy đua vũ khí và … dịch cúm
Chất béo, cholesterol, bệnh tim và statins: xét lại bằng chứng
Chất keo xã hội: hormones
Chất lượng nghiên cứu dịch tễ học và y tế cộng đồng của Việt Nam qua chỉ số H
Chất lượng nghiên cứu khoa học ở Việt Nam qua chỉ số trích dẫn
Chất vấn chuẩn chẩn đoán béo phì
Chế độ ăn uống với nhiều thịt động vật và nguy cơ tử vong
Chủng vi khuẩn tả hiện nay ở nước ta có phải mới xuất hiện?
Cuộc chiến hóa học phi pháp lớn nhất trong lịch sử chiến tranh
Câu chuyện y học: Leptin và béo phì
Có bao nhiêu bác sĩ viết chữ khó đọc
Có nên tập trung vào vi khuẩn E. coli ?
Có thể xảy ra đại dịch cúm gia cầm?
Công cụ đơn giản để chẩn đoán tiểu đường ở người Đông Nam Á
Cúm gia cầm và nhiễu thông tin
Cúm H1N1: biết và chưa biết
Cơ hội để khép lại một chương lịch sử đau lòng
Cần hiểu đúng về Ung thư và nguy cơ ung thư
Cần qui ước đạo đức cho kĩ nghệ thực phẩm
Cần tiêm chủng ngừa bệnh tả vùng có nguy cơ cao
Cần điều tra về chất lượng bệnh viện
Cổ phần hóa bệnh viện công và chất lượng
Cổ phần hóa: chưa phải cách duy nhất
DDT và vấn đề cân đối giữa lợi ích và nguy hiểm
Dinh dưỡng: một nguồn thuốc quí giá
DNA không nói dối, nhưng DNA có thể nói … sai
Dịch cúm gà: hoang mang và sự thật khoa học
Dịch cúm heo và tác hại kinh tế
Dịch tay-chân-miệng
Dịch tả: gọi đúng tên để phòng ngừa
Dựa vào khoa học, đừng dựa vào niềm tin!
E. coli – vài câu hỏi thông thường
Gen và bệnh tật
Ghen tuông dưới cái nhìn của tâm lí y khoa
Gian lận trong nghiên cứu khoa học: áp lực kinh tế và cơ chế bình duyệt
GIÁO DỤC ĐẠI HỌC: KHƠI DẬY VÀ NUÔI DƯỠNG TÍNH HAM HỌC
Giải nobel y học hay sinh lí học 2007 và lợi ích cho người bệnh
Giải Nobel Y sinh học 2008 và những tranh chấp khoa học
Giải Nobel y sinh học 2010 vinh danh người đem niềm vui cho người vô sinh
Giải Nobel y sinh học năm 2005: Một cõi đi về với vi khuẩn
Giải Nobel y sinh học: Nhìn lại quãng đường 100 năm
Giải phẫu ghép mặt và vấn đề y đức
Gout ở xương sống
Gãy xương và tử vong: một vấn nạn y tế cộng đồng
Hiệu quả vắcxin có nghĩa gì?
Hoa vàng mấy độc
Hàm lượng đạm trong sữa “siêu thấp” hay “siêu cao”?
Hóa chất khai hoang trong cuộc chiến Viện Nam: Qui mô và tầm ảnh hưởng
Hướng đi nào để giải quyết vấn đề chất độc da cam ở Việt Nam
Hậu “mắm tôm được minh oan”: bằng chứng khoa học, nhà xí và nghiên cứu
Hệ Thống Học Vị Và Học Hàm Khoa Học Ở Vài Nước Tây Phương
Hợp tác khoa học kiểu nhảy dù - Nguyễn Văn Tuấn
Khi bác sĩ trẻ “khoe” quá nhiều
Khoa học và ngụy khoa học: một vài đặc điểm và khác biệt cần biết
Khoa học, xã hội, và rủi ro
Không thể thành Phù Đổng trong 20 năm!
Khẩu trang và phòng chống cúm A/H1N1
Kiểm định giả thuyết mắm tôm và vi khuẩn tả
Liều lượng melamine bao nhiêu là an toàn?
Lí lịch sinh học của heo và dấu vết văn minh nông nghiệp Đông Nam Á
Lượng giá mạng sống con người
Lợi ích của vitamin D
Miệng nhà quan
Mắm tôm có phải là “thủ phạm” gây bệnh tả? Xét lại bằng chứng khoa học
Mắm tôm và chuyện xin lỗi
Mắm tôm và dịch tả: phân biệt yếu tố nguy cơ và nguyên nhân
Mắm tôm vô tội!
Mắm tôm, nguyên nhân và hệ quả
Mối quan hệ giữa giới y khoa và kĩ nghệ dược
Mối quan hệ giữa giới y khoa và kĩ nghệ dược
Một bệnh hiếm X-linked recessive hypoparathyroidism
Một lần đi phỏng vấn
Một năm nhìn lại
Một phán quyết thiếu cơ sở khoa học
Một vài hiểu lầm tai hại
Một vài ngộ nhận về nghiên cứu khoa học
Một vài vấn đề về qui định chức danh giáo sư ở Việt Nam
Một vụ Madoff trong y khoa: Lại một ngôi sao y khoa rơi rụng!
Mỡ trắng, mỡ nâu
Mỡ  trong máu, huyết áp, và  tiểu đường
Nghiên cứu y học ở Việt Nam: Đặc điểm, thiếu sót, và sai sót
Nghiên cứu y học ở Việt Nam: Đặc điểm, thiếu sót, và sai sót
Nguyên nhân bệnh tiêu chảy
Ngó trên tay điếu thuốc đã lụi dần
Người cao tuổi và sự hạn chế của y khoa
Người ăn chay có mật độ xương như người ăn mặn
Người ăn chay có mật độ xương như người ăn mặn
Nhân chuyện dịch tả nhớ lại John Snow
Nhân câu chuyện điện não đồ xét nghiệm nghiện ma túy:
Nhân năm khỉ_nguồn gốc con người hiện đại
Nhân năm Tý bàn chuyện thí nghiệm trên chuột
Nhìn lại khoa học Việt Nam năm 2008 qua công bố quốc tế
Nhầm lẫn trong y khoa: Khá phổ biến, nhưng ít ai biết!
Những câu hỏi và trả lời về dịch gia cầm
Những sai sót khó tin nhưng có thật
Những sai sót nguy hiểm trong toa thuốc
Những điều khó tin về “Bảy điều khó tin nhất trong y học”
Năm lí do cho mắm tôm “vô tội”
Phán quyết sau cùng: Chất béo không ảnh hưởng đến ung thư và bệnh tim
Phát hiện gien kiểm soát ráy tai: vài bài học về mò kim đáy biển
Phòng chống bệnh phải dựa vào bằng chứng khoa học!
Phòng chống H1N1 bằng rửa tay và khẩu trang: Biện pháp nào hiệu quả hơn?
Qui định cấp giấy phép lái xe dựa vào chiều cao và cân nặng: thiếu cơ sở khoa học và kì thị giới tính
Qui định cấp giấy phép lái xe dựa vào chiều cao: vấn đề giả định và bằng chứng khoa học
Quyền phê phán và trí thức
Quyền được tiếp cận hồ sơ bệnh án
Quản lý chất lượng: Thuốc phòng "tai nạn y khoa"
Rửa tay bằng xà phòng và tiêu chảy
Serotonin có liên quan đến chứng đột tử
Suy dinh dưỡng ở trẻ em: vấn đề của kinh tế
Sàng lọc trẻ sơ sinh trên phạm vi toàn quốc
Tai nạn y khoa trong bệnh viện
Thế nào là một "bài báo khoa học"
Thế nào là “Cơ sở khoa học” ?
Thịt chó là nguyên nhân của bệnh tiêu chảy cấp tính?
Thịt chó và bệnh tả: nguyên nhân và yếu tố nguy cơ
Tiên lượng bệnh Alzheimer bằng protein expression ?
Tiêu chuẩn chất lượng giáo dục đại học
Tiêu chuẩn chẩn đoán béo phì cho người Việt - Nguyễn Văn Tuấn
Tiêu chuẩn chẩn đoán bệnh đái tháo đường (diabetes mellitus)
Tiêu chuẩn đề bạt giáo sư: Có nên căn cứ vào số lượng bài báo ?
Tiêu chảy cấp tính và bệnh tả: Định danh cho đúng
Truy tìm ung thư bằng mammography từ tuổi 50
Truyền thông và khoa học: Qui ước Ingelfinger
Truyền thông và y tế
Truyền thông, khoa học và … doanh nghiệp
Trà xanh và sức khỏe
Trách nhiệm và nhân đạo trong vấn đề chất độc da cam
Trái chanh và phòng chống bệnh tả
Trả lời những câu hỏi liên quan đến loãng xương
Trọng lượng cơ thể và tử vong ở người Trung Quốc: Ý nghĩa về việc xác định tiêu chuẩn chẩn đoán béo phì
Tuổi thọ của người dân giảm 10 năm ?
Tác dụng Placebo trong y học: Tâm lí và ý nghĩa
Tình yêu, sắc đẹp nhìn dưới quan điểm di truyền học
Tín hiệu môi trường từ những “làng ung thư”
Tính khoa học và minh bạch đằng sau xét nghiệm doping
Tại sao không phát biểu về nguyên nhân và hệ quả ?
Tại sao uống rượu gây đỏ mặt và nguy cơ ung thư thực quản
Tạo sinh vô tính và cái chết của Thượng đế
Tạo sinh vô tính và vấn đề sinh đạo đức
Tản mạn về SARS
Tỉ lệ tử vong do cúm heo là bao nhiêu ?
Tự trị, chất lượng và y đức thay vì cổ phần hóa bệnh viện công
Ung thư vú và vấn đề thông tin y khoa
Uống bia hấp dẫn muỗi
Vaccine phòng chống AIDS hiệu quả đến đâu ?
Vaccine phòng chống cúm A/H1N1
Vi khuẩn gây tiêu chảy và ý nghĩa tiêm chủng
Vi khuẩn tả trong chó ?
Viết văn có thể chữa nhiều loại bệnh
Viết văn và trị liệu
Việc ta, ta cứ làm!
Vài nhận xét về 12 điều lệ y đức của Việt Nam
Vài thông tin cần biết về các chương trình truy tìm ung thư vú
Vài đóng góp quan trọng của người Việt khoa học thống kê
Văn hóa khoa học
Văn hóa tranh luận và vấn đề ngụy biện
Vấn đề sinh tố: kẽm và đồng
Vấn đề truy tìm ung thư phổi và hiệu quả 
Vấn đề y đức trong nghiên cứu tế bào mầm (stem cells)
Vấn đề đo lường melamine
Vấn đề đào tạo tiến sĩ: kinh nghiệm từ Australia
Vắc-xin phòng chống ung thư cổ tử cung
Vắcxin ngừa viêm gan B: cẩn thận với “nhiễu thông tin”
Vắcxin ngừa viêm gan B: kinh nghiệm từ nước ngoài
Vắcxin phòng bệnh sởi - quai bị - Rubella: lợi và hại
Vắcxin phòng chống ung thư cổ tử cung: hiệu quả lâm sàng và kinh tế
Vắcxin phòng ngừa bệnh tả: rất cần thiết
Về chấn chỉnh đào tạo tiến sĩ: Công bố bài báo khoa học là một thách thức lớn ?
Về học vị tiến sĩ
Về một sự hiểu lầm thuật ngữ "prospective"
Về phản ứng phụ của bisphosphonates liên quan đến hoại tử xương hàm và rung nhĩ
Vệ sinh như là một loại hàng hóa
Vị thế của nền khoa học Việt Nam
Xung quang xì căng đan về nghiên cứu tế bào mầm
Xã hội hóa và an toàn thực phẩm
Xếp hạng đại học: cần minh bạch hóa phương pháp
Y học hiện đại và những hứa hẹn
Y học thực chứng: vài nét khái quát
Y Khoa và những nhầm lẫn chết người
Y tế dự phòng: nền tảng của y khoa hiện đại
Y đức và nghiên cứu y học
Ói mửa, cao huyết áp và hôn mê
Ăn chay như là một trị liệu
Ăn chay và loãng xương
Điều trị bệnh dựa vào màu da ?
Điều trị đau dây thần kinh tọa bằng phẫu thuật: không có hiệu quả
Đo lường hiệu suất khoa học
Đánh giá đúng tầm quan trọng của ung thư vú 
Đại dịch H1N1
Đại dịch và đại dịch ảo
Đại dịch đã đến ?
Đạo văn trong hoạt động khoa học
Đậu nành và sức khỏe: đâu là thực và đâu là giả
Đậu nành và sức khỏe: đâu là thực và đâu là giả
Đằng sau những con số hàm lượng đạm trong sữa
Đế quốc Trà
Đề bạt các chức danh khoa bảng: vài kinh nghiệm từ Úc
Đọc lại 12 điều y đức của Việt Nam
Đồi điều về sữa nhiễm melamine
Đừng quên melamine trong các thực phẩm khác!
Ước vọng 200 ?
“Kỹ năng mềm” cho nhà khoa học
“Sẽ” và “có thể”


Trang nhiều tác giả
Trang riêng của Lê Ngọc Dũng
Trang riêng của Lương Lễ Hoàng
Trang riêng của Nguyễn Bảo Trung
Trang riêng của Nguyễn Hoài Nam
Trang riêng của Nguyễn Hữu Đức
Trang riêng của Nguyễn Văn Tuấn
Trang riêng của Nguyễn Ý Đức
Trang riêng của Nguyễn Đình Nguyên
Trang riêng của Phan Xuân Trung
Trang riêng của Đỗ Hồng Ngọc
Trang riêng của Đỗ Minh Tuấn