NGUYỄN VĂN TUẤN

Y tế dự phòng: nền tảng của y khoa hiện đại

Nguyễn Văn Tuấn

(Bài đã đăng trên Tuần Việt Nam)

Trước tình hình phát triển kinh tế nhanh chóng đã và đang diễn ra trong vòng một thập niên trở lại đây, và nước ta không còn xếp vào nhóm các nước nghèo khó nữa, chúng ta có xu hướng quên rằng tình hình y tế và sức khỏe người dân ở nước ta vẫn ở trong tình trạng của một nước nghèo.  Thật vậy, thực trạng về bệnh tiêu chảy cấp tính, bệnh tả, cúm gia cầm, SARS, v.v… trong thời gian gần đây là những nhắc nhở rằng nước ta vẫn còn đang đương đầu với những bệnh nhiệt đới, những vấn nạn của các nước nghèo.  Trong tình hình như thế, hơn lúc nào hết, nước ta cần một mạng lưới y tế cộng đồng tốt để phòng bệnh từ cấp cơ sở. 

***

Mỗi lần đọc một bản tin về một ca giải phẫu lớn được thực hiện thành công ở nước ta, tôi vừa mừng vừa lo.  Mừng là vì giới y khoa nước ta chứng tỏ cho thế giới biết rằng chúng ta không thua kém bất cứ ai về mặt kĩ năng phẫu thuật.  Nhưng lo là vì tôi sợ những thành công mang tính đơn lẻ như thế làm cho chúng ta sao lãng một “bức tranh” lớn hơn và nghiêm trọng hơn: sức khỏe cộng đồng.  Nhìn qua bức tranh sức khỏe cộng đồng tôi cho rằng Nhà nước phải tập trung đầu tư vào việc phát triển hệ thống y tế cộng đồng hay y tế dự phòng thay vì tập trung vào các thiết bị y khoa đắt tiền. 

Bức tranh sức khỏe Việt Nam

Chúng ta cần nhìn vào bức tranh y tế nước ta cho kĩ!  Thống kê chính thức của Bộ Y tế cho thấy các bệnh sau đây nằm trong hàng “top 10” ở nước ta: các bệnh viêm phổi, viêm họng và viêm Amidan cấp, viêm phế quản và viêm tiểu phế quản cấp, tiêu chảy, viêm dạ dày, ruột non có nguồn gốc nhiễm khuẩn, cúm, sốt rét, tai nạn giao thông, và  các bệnh đường hô hấp.

Vẫn theo thống kê của Bộ Y tế, những nguyên nhân tử vong hàng đầu ở nước ta (theo thứ tự) là: các bệnh viêm phổi, các bệnh liên quan đến hệ thống hô hấp (kẻ cả lao), thai chậm phát triển, tai nạn giao thông, suy dinh dưỡng, rối loạn gắn liền với thai nghén và cân nặng không đủ khi sinh, và các tổn thương hô hấp đặc hiệu khác của thời kì chu sinh.

Bức tranh sức khỏe trên cho chúng ta thấy rằng các bệnh viêm và nhiễm trùng, suy dinh dưỡng, và tai nạn giao thông là những bệnh dân ta thường hay mắc và cũng chính là những “tử thần” nguy hiểm nhất hiện nay. 

Cái mẫu số chung của các bệnh này là mối liên hệ với kinh tế, hay nói thẳng ra là tình trạng nghèo khó của người dân.  Hãy lấy suy dinh dưỡng ở trẻ em làm ví dụ: ngoài các nguyên nhân sinh học và lâm sàng, đứng trên quan điểm của y tế cộng đồng, nguyên nhân chính của suy dinh dưỡng -- như tên gọi rất chính xác -- là thiếu ăn.  Thiếu ăn là do nghèo và hoàn cảnh kinh tế gia đình khó khăn.  Trong khi nền kinh tế nước ta phát triển nhanh, một bộ phận dân số -- nhất là những người sống trong vùng nông thôn hay vùng xa -- vẫn chưa đủ ăn (và chưa đủ mặc).  Theo kết quả nghiên cứu ở Đồng Nai, phần lớn (76%) trẻ em suy dinh dưỡng là những em có cha mẹ là nông dân hay làm thuê.  Gia đình càng có nhiều con, tỉ lệ suy dinh dưỡng càng cao.

Một đặc điểm chung của những bệnh hàng đầu hiện nay ở nước ta là chúng rất phổ biến.  Chẳng hạn như suy dinh dưỡng, có báo cáo cho thấy cứ 5 trẻ em ở nước ta thì có 1 em suy dinh dưỡng (theo một thống kê trong hội nghị tổng kết đánh giá các hoạt động dinh dưỡng năm 2007 do Bộ Y tế và Viện Dinh dưỡng quốc gia tổ chức vào đầu năm nay).  Hay như bệnh viêm phổi (là nguyên nhân tử vong số 1), mỗi năm có đến khoảng 360.000 người mắc.  Hay như hút thuốc lá, có nghiên cứu cho thấy khoảng 73% đàn ông và thanh niên (tuổi từ 18 trở lên) hút thuốc lá.  Đây là một tỉ lệ cao nhất thế giới mà các nhà nghiên cứu Việt-Mĩ đã ghi nhận.  Cao hơn cả Trung Quốc và Nhật!  Nếu tính theo dân số hiện hành, nước ta có 18,24 triệu thanh niên và đàn ông trên 20 tuổi hút thuốc lá!

Người viết bài này ước tính rằng mỗi năm có khoảng 11.500 thanh niên và đàn ông trên 20 tuổi mắc bệnh ung thư phổi; trong số này 85% (hay 9.800 trường hợp) là có liên quan đến hút thuốc lá.  Hút thuốc lá cũng là yếu tố nguy cơ có liên quan đến 85% trường hợp ung thư họng, nhưng số lượng bệnh nhân ít hơn ung thư phổi. Chi phí liên quan đến thuốc lá (chỉ tính chi phí điều trị trong bệnh viện) là khoảng 78 triệu USD (thời giá 2005).

Nhu cầu cho một hệ thống y tế dự phòng

Vì qui mô của các bệnh mà nước đang đối phó rất lớn, chúng ta không thể kì vọng rằng xây thêm bệnh viện hay nhập thiết bị y khoa hiện đại sẽ giải quyết được vấn đề.  Nhu cầu tăng cường cơ sở vật chất y tế hiện đại là cần thiết nhưng mang tính cấp thiết, bởi vì một nhu cầu khác lâu dài hơn và quan trọng hơn là xây dựng một mạng lưới y tế cộng đồng hay y tế dự phòng. Tại sao cần phải xây dựng mạng lưới y tế dự phòng?  Câu trả lời đơn giản là tại vì chúng ta muốn phòng bệnh hơn là chữa bệnh. Các thiết bị hiện đại là để chữa bệnh chứ không ngừa bệnh; các biện pháp phòng bệnh cần một tư duy mới về y tế. 

Tư duy y khoa truyền thống thường quan tâm đến việc đáp ứng nhu cầu của bệnh nhân.  Tư duy này hun đúc thành những qui định về y đức như có trách nhiệm với cá nhân người bệnh, và các cơ sở vật chất y tế thường được thiết kế để đáp ứng nhu cầu của người bệnh.  Ngay cả nghiên cứu y khoa cũng chịu ảnh hưởng bởi tư duy này, vì một nghiên cứu y khoa cổ điển thường bắt đầu với câu hỏi “tại sao bệnh nhân mắc bệnh”. 

Ngày nay, chúng ta biết rằng nếu hệ thống y tế chỉ để đáp ứng nhu cầu của bệnh nhân thì vẫn chưa đủ.  Do đó, tư duy y khoa truyền thống này đã được khai triển thành một bước cao hơn và qui mô hơn: đó là phòng bệnh và nhận dạng những nhóm người có nguy cơ mắc bệnh cao.  Nói cách khác, đây chính là tư duy y tế dự phòng

Tư duy y khoa truyền thống đặt trọng tâm vào việc điều trị và chữa bệnh, còn tư duy y tế dự phòng đặt trọng tâm vào việc phòng bệnh.  Đối tượng của tư duy y khoa truyền thống là cá nhân người bệnh, còn đối tượng của tư duy y khoa dự phòng là cộng đồng.  Đối với y khoa truyền thống, một cá nhân hoặc là có hay không có bệnh (do đó, có người ví von rằng y khoa cổ điển chỉ biết đếm từ 0 đến 1), nhưng y tế dự phòng quan tâm đến nguy cơ mắc bệnh của một quần thể (và nguy cơ này có thể dao động từ thấp, trung bình, đến cao).  Do đó, chỉ số để đánh giá hiệu quả lâm sàng của y khoa cổ điển là sự thành công trong việc cứu một bệnh nhân, nhưng chỉ số lâm sàng của y tế dự phòng là giảm thiểu nguy cơ mắc bệnh của một cộng đồng và kéo dài tuổi thọ cho một dân số.

Y tế dự phòng không chỉ quan tâm đến các bệnh truyền nhiễm hay suy dinh dưỡng, mà còn liên quan trực tiếp đến các bệnh mãn tính như tim mạch, viêm khớp xương, đái tháo đường, cao huyết áp, tai biến, loãng xương, ung thư, v.v… Y tế dự phòng quan niệm rằng sự phát sinh các bệnh mãn tính là hệ quả của một quá trình tích lũy những rối loạn sinh lí qua phơi nhiễm các yếu tố nguy cơ.  Do đó, can thiệp vào các yếu tố nguy cơ sẽ làm giảm nguy cơ mắc bệnh ở qui mô cộng đồng.

Các yếu tố nguy cơ này có thể chia thành 2 nhóm: nhóm có thể can thiệp được và nhóm không thể can thiệp được.  Các yếu tố không có thể can thiệp được như tuổi tác và di truyền.  Nhưng các yếu tố có thể can thiệp được như dinh dưỡng, vận động thể lực, lối sống (hút thuốc lá, thói quen rượu bia), môi trường sống (như nước, không khí, phương tiện đi lại), v.v… Từ đó, các chiến lược y tế dự phòng là làm thay đổi các yếu tố có thể can thiệp được để nâng cao chất lượng sống cho cộng đồng.

Vì thế, thành công của một chiến lược y tế dự phòng có thể đem lại lợi ích và hiệu quả cao hơn là thành công trong việc đáp ứng nhu cầu của người bệnh.  Chẳng hạn như một nghiên cứu mới công bố vào tháng 11 năm ngoái cho thấy rằng chỉ cần 50-70% dân số trong những vùng bị dịch tả (hay có nguy cơ cao, như các tỉnh phía Bắc hiện nay) uống vắcxin 2 lần một năm, và với hiệu quả như vừa mô tả, số ca bệnh tả có thể giảm đến 90%.

Vấn đề đầu tư

Nhận thức được vai trò quan trọng của y tế dự phòng, ở các nước tiên tiến đều thiết lập mạng lưới y tế cộng đồng đến từng phường và các vùng xa thành phố.  Chẳng hạn như ở Úc, các bà mẹ trước và sau khi sinh con đều được tầm soát và kiểm tra sức khỏe ở các trạm y tế dự phòng này.  Ngoài ra, các dịch vụ về phòng chống bệnh ở qui mô cộng đồng như tiêm chủng ngừa, tuyên truyền và giáo dục y tế cộng đồng, v.v… đều được thực hiện bởi các cán bộ y tế dự phòng.

Nhưng một điều đáng buồn ở nước ta ngày nay là y tế dự phòng không được đánh giá đúng mức.  Thật là sốc khi nghe có quan chức chính quyền nói rằng không cần đến y tế xã.  Có thể nói đó là một phát biểu vô trách nhiệm nhất.  Muốn xây nhà cho vững thì phải có nền móng cho chắc; muốn có một nền y tế quốc gia hữu hiệu thì phải bắt đầu bằng hệ thống y tế cơ sở tốt. 

Nhưng trong thực tế, chi tiêu của Nhà nước cho y tế chỉ chiếm 6,1% tổng số chi tiêu của Nhà nước.  Tỉ lệ này thấp nhất so với các nước láng giềng như Campuchea (16%), Lào (khoảng 7%), Mã Lai (6,5%), Trung Quốc (10%), và Nhật (16.4%). Do đó, không ngạc nhiên khi thấy cơ sở vật chất của hệ thống y tế ở nước ta đã ở trong tình trạng quá tải từ hơn một thập niên qua.  Thật vậy, theo thống kê của Bộ Y tế, năm 1997 cả nước có khoảng 198 ngàn giường bệnh, nhưng đến năm 2005, con số này giảm xuống còn 197 ngàn!  Trong khi đó dân số tiếp tục gia tăng, và hệ quả là số giường bệnh tính trên 10.000 dân số giảm từ 26,6 năm 1997 xuống còn 23,7 năm 2005.

Thật ra phải nói là “khủng hoảng” thì mới đúng, vì ở bất cứ tỉnh thành hay địa phương nào, công suất giường bệnh tại các bệnh viện đều trên 100%.  Tình trạng hai hay ba bệnh nhân cùng nằm một giường, hay phải nằm dưới sàn hay ghế bố, phổ biến đến nỗi các bác sĩ xem đó là chuyện bình thường!  Đứng trên bình diện vĩ mô, nguyên nhân chính của tình trạng này là do cơ sở vật y tế dự phòng còn quá kém, cho nên bệnh nhân “vượt tuyến” đến các bệnh viện lớn. 

Mục tiêu tối hậu của bất cứ hệ thống y tế nào là nâng cao sức khỏe và kéo dài tuổi thọ cho người dân. Ngày nay, người ta nói đến “xã hội hóa” y tế, nhưng thực tế là đùn đẩy chi tiêu y tế về cho người dân.  Bệnh viện và các công trình phúc lợi xã hội (như trường học và đại học) là hiện thân, là thể hiện sự quan tâm của một chính phủ đến sự an sinh của người dân.  Nhà nước cần phải tăng đầu tư cho ngành y tế dự phòng, và qua đó tạo điều kiện sao cho người nghèo có thể được điều trị như mọi thành phần khác trong xã hội, và từng bước nâng cao công bằng xã hội.  Bài toán y tế ở nước ta chính là xây dựng hệ thống y tế dự phòng, chứ không phải nên tập trung ngân sách vào những thiết bị đắt tiền mà đại đa số người dân không hưởng lợi ích gì từ những đầu tư như thế.

Thành công một ca giải phẫu có thể cứu sống một mạng người, nhưng thành công trong một chiến lược y tế dự phòng có thể cứu sống nhiều triệu người, và kéo dài tuổi thọ cũng như nâng cao chất lượng sống cho cả một dân tộc.  Nhưng trớ trêu thay, trong khi người bác sĩ thành công một ca giải phẫu chắc chắn sẽ được báo chí nhắc đến như là một anh hùng, những người vạch định và thực hiện thành công một chiến lược y tế dự phòng là những người “trầm lặng” chẳng ai để ý đến!  Đã đến lúc xã hội phải ghi nhận đúng đắn những đóng góp âm thầm của các nhà y tế dự phòng.


200 năm Darwin
Agent Orange: collateral damage
Alexandre Yersin và Việt Nam
Bàn về hiệu quả vắcxin: lâm sàng và kinh tế
Bàn về vấn đề dịch thuật và đánh giá năng suất khoa học
Béo phì ở người Á châu
Béo phì ở trẻ em và virus
Bình luận từ Dr. Yến
Bưởi không gây ung thư vú
Bảo hiểm y tế cộng đồng
Bảo tồn môi sinh: Chiến tranh giữa hai thế giới
Bằng chứng khoa học thay vì lên lớp
Bệnh tả: không để Việt Nam thành Bangladesh thứ hai
Bệnh tật nhìn từ quan điểm của thuyết tiến hóa
Bệnh xơ hóa cơ delta qua y văn thế giới
Bổ sung kẽm và điều trị bệnh tả
Bộ gen trong cây lúa và triển vọng
Bộ Y tế phản ứng chậm với rét đậm
Chiều cao của người Việt
Chiều cao và tổng thống Mĩ
Cholesterol và bệnh Tim
Cholesterol: hung thần hay bạn?
Chuột và... các nhà khoa học
Chính sách y tế cần dựa vào bằng chứng khoa học
Chạy đua vũ khí và … dịch cúm
Chất béo, cholesterol, bệnh tim và statins: xét lại bằng chứng
Chất keo xã hội: hormones
Chất lượng nghiên cứu dịch tễ học và y tế cộng đồng của Việt Nam qua chỉ số H
Chất lượng nghiên cứu khoa học ở Việt Nam qua chỉ số trích dẫn
Chất vấn chuẩn chẩn đoán béo phì
Chế độ ăn uống với nhiều thịt động vật và nguy cơ tử vong
Chủng vi khuẩn tả hiện nay ở nước ta có phải mới xuất hiện?
Cuộc chiến hóa học phi pháp lớn nhất trong lịch sử chiến tranh
Câu chuyện y học: Leptin và béo phì
Có bao nhiêu bác sĩ viết chữ khó đọc
Có nên tập trung vào vi khuẩn E. coli ?
Có thể xảy ra đại dịch cúm gia cầm?
Công cụ đơn giản để chẩn đoán tiểu đường ở người Đông Nam Á
Cúm gia cầm và nhiễu thông tin
Cúm H1N1: biết và chưa biết
Cơ hội để khép lại một chương lịch sử đau lòng
Cần hiểu đúng về Ung thư và nguy cơ ung thư
Cần qui ước đạo đức cho kĩ nghệ thực phẩm
Cần tiêm chủng ngừa bệnh tả vùng có nguy cơ cao
Cần điều tra về chất lượng bệnh viện
Cổ phần hóa bệnh viện công và chất lượng
Cổ phần hóa: chưa phải cách duy nhất
DDT và vấn đề cân đối giữa lợi ích và nguy hiểm
Dinh dưỡng: một nguồn thuốc quí giá
DNA không nói dối, nhưng DNA có thể nói … sai
Dịch cúm gà: hoang mang và sự thật khoa học
Dịch cúm heo và tác hại kinh tế
Dịch tay-chân-miệng
Dịch tả: gọi đúng tên để phòng ngừa
Dựa vào khoa học, đừng dựa vào niềm tin!
E. coli – vài câu hỏi thông thường
Gen và bệnh tật
Ghen tuông dưới cái nhìn của tâm lí y khoa
Gian lận trong nghiên cứu khoa học: áp lực kinh tế và cơ chế bình duyệt
GIÁO DỤC ĐẠI HỌC: KHƠI DẬY VÀ NUÔI DƯỠNG TÍNH HAM HỌC
Giải nobel y học hay sinh lí học 2007 và lợi ích cho người bệnh
Giải Nobel Y sinh học 2008 và những tranh chấp khoa học
Giải Nobel y sinh học 2010 vinh danh người đem niềm vui cho người vô sinh
Giải Nobel y sinh học năm 2005: Một cõi đi về với vi khuẩn
Giải Nobel y sinh học: Nhìn lại quãng đường 100 năm
Giải phẫu ghép mặt và vấn đề y đức
Gout ở xương sống
Gãy xương và tử vong: một vấn nạn y tế cộng đồng
Hiệu quả vắcxin có nghĩa gì?
Hoa vàng mấy độc
Hàm lượng đạm trong sữa “siêu thấp” hay “siêu cao”?
Hóa chất khai hoang trong cuộc chiến Viện Nam: Qui mô và tầm ảnh hưởng
Hướng đi nào để giải quyết vấn đề chất độc da cam ở Việt Nam
Hậu “mắm tôm được minh oan”: bằng chứng khoa học, nhà xí và nghiên cứu
Hệ Thống Học Vị Và Học Hàm Khoa Học Ở Vài Nước Tây Phương
Hợp tác khoa học kiểu nhảy dù - Nguyễn Văn Tuấn
Khi bác sĩ trẻ “khoe” quá nhiều
Khoa học và ngụy khoa học: một vài đặc điểm và khác biệt cần biết
Khoa học, xã hội, và rủi ro
Không thể thành Phù Đổng trong 20 năm!
Khẩu trang và phòng chống cúm A/H1N1
Kiểm định giả thuyết mắm tôm và vi khuẩn tả
Liều lượng melamine bao nhiêu là an toàn?
Lí lịch sinh học của heo và dấu vết văn minh nông nghiệp Đông Nam Á
Lượng giá mạng sống con người
Lợi ích của vitamin D
Miệng nhà quan
Mắm tôm có phải là “thủ phạm” gây bệnh tả? Xét lại bằng chứng khoa học
Mắm tôm và chuyện xin lỗi
Mắm tôm và dịch tả: phân biệt yếu tố nguy cơ và nguyên nhân
Mắm tôm vô tội!
Mắm tôm, nguyên nhân và hệ quả
Mối quan hệ giữa giới y khoa và kĩ nghệ dược
Mối quan hệ giữa giới y khoa và kĩ nghệ dược
Một bệnh hiếm X-linked recessive hypoparathyroidism
Một lần đi phỏng vấn
Một năm nhìn lại
Một phán quyết thiếu cơ sở khoa học
Một vài hiểu lầm tai hại
Một vài ngộ nhận về nghiên cứu khoa học
Một vài vấn đề về qui định chức danh giáo sư ở Việt Nam
Một vụ Madoff trong y khoa: Lại một ngôi sao y khoa rơi rụng!
Mỡ trắng, mỡ nâu
Mỡ  trong máu, huyết áp, và  tiểu đường
Nghiên cứu y học ở Việt Nam: Đặc điểm, thiếu sót, và sai sót
Nghiên cứu y học ở Việt Nam: Đặc điểm, thiếu sót, và sai sót
Nguyên nhân bệnh tiêu chảy
Ngó trên tay điếu thuốc đã lụi dần
Người cao tuổi và sự hạn chế của y khoa
Người ăn chay có mật độ xương như người ăn mặn
Người ăn chay có mật độ xương như người ăn mặn
Nhân chuyện dịch tả nhớ lại John Snow
Nhân câu chuyện điện não đồ xét nghiệm nghiện ma túy:
Nhân năm khỉ_nguồn gốc con người hiện đại
Nhân năm Tý bàn chuyện thí nghiệm trên chuột
Nhìn lại khoa học Việt Nam năm 2008 qua công bố quốc tế
Nhầm lẫn trong y khoa: Khá phổ biến, nhưng ít ai biết!
Những câu hỏi và trả lời về dịch gia cầm
Những sai sót khó tin nhưng có thật
Những sai sót nguy hiểm trong toa thuốc
Những điều khó tin về “Bảy điều khó tin nhất trong y học”
Năm lí do cho mắm tôm “vô tội”
Phán quyết sau cùng: Chất béo không ảnh hưởng đến ung thư và bệnh tim
Phát hiện gien kiểm soát ráy tai: vài bài học về mò kim đáy biển
Phòng chống bệnh phải dựa vào bằng chứng khoa học!
Phòng chống H1N1 bằng rửa tay và khẩu trang: Biện pháp nào hiệu quả hơn?
Qui định cấp giấy phép lái xe dựa vào chiều cao và cân nặng: thiếu cơ sở khoa học và kì thị giới tính
Qui định cấp giấy phép lái xe dựa vào chiều cao: vấn đề giả định và bằng chứng khoa học
Quyền phê phán và trí thức
Quyền được tiếp cận hồ sơ bệnh án
Quản lý chất lượng: Thuốc phòng "tai nạn y khoa"
Rửa tay bằng xà phòng và tiêu chảy
Serotonin có liên quan đến chứng đột tử
Suy dinh dưỡng ở trẻ em: vấn đề của kinh tế
Sàng lọc trẻ sơ sinh trên phạm vi toàn quốc
Tai nạn y khoa trong bệnh viện
Thế nào là một "bài báo khoa học"
Thế nào là “Cơ sở khoa học” ?
Thịt chó là nguyên nhân của bệnh tiêu chảy cấp tính?
Thịt chó và bệnh tả: nguyên nhân và yếu tố nguy cơ
Tiên lượng bệnh Alzheimer bằng protein expression ?
Tiêu chuẩn chất lượng giáo dục đại học
Tiêu chuẩn chẩn đoán béo phì cho người Việt - Nguyễn Văn Tuấn
Tiêu chuẩn chẩn đoán bệnh đái tháo đường (diabetes mellitus)
Tiêu chuẩn đề bạt giáo sư: Có nên căn cứ vào số lượng bài báo ?
Tiêu chảy cấp tính và bệnh tả: Định danh cho đúng
Truy tìm ung thư bằng mammography từ tuổi 50
Truyền thông và khoa học: Qui ước Ingelfinger
Truyền thông và y tế
Truyền thông, khoa học và … doanh nghiệp
Trà xanh và sức khỏe
Trách nhiệm và nhân đạo trong vấn đề chất độc da cam
Trái chanh và phòng chống bệnh tả
Trả lời những câu hỏi liên quan đến loãng xương
Trọng lượng cơ thể và tử vong ở người Trung Quốc: Ý nghĩa về việc xác định tiêu chuẩn chẩn đoán béo phì
Tuổi thọ của người dân giảm 10 năm ?
Tác dụng Placebo trong y học: Tâm lí và ý nghĩa
Tình yêu, sắc đẹp nhìn dưới quan điểm di truyền học
Tín hiệu môi trường từ những “làng ung thư”
Tính khoa học và minh bạch đằng sau xét nghiệm doping
Tại sao không phát biểu về nguyên nhân và hệ quả ?
Tại sao uống rượu gây đỏ mặt và nguy cơ ung thư thực quản
Tạo sinh vô tính và cái chết của Thượng đế
Tạo sinh vô tính và vấn đề sinh đạo đức
Tản mạn về SARS
Tỉ lệ tử vong do cúm heo là bao nhiêu ?
Tự trị, chất lượng và y đức thay vì cổ phần hóa bệnh viện công
Ung thư vú và vấn đề thông tin y khoa
Uống bia hấp dẫn muỗi
Vaccine phòng chống AIDS hiệu quả đến đâu ?
Vaccine phòng chống cúm A/H1N1
Vi khuẩn gây tiêu chảy và ý nghĩa tiêm chủng
Vi khuẩn tả trong chó ?
Viết văn có thể chữa nhiều loại bệnh
Viết văn và trị liệu
Việc ta, ta cứ làm!
Vài nhận xét về 12 điều lệ y đức của Việt Nam
Vài thông tin cần biết về các chương trình truy tìm ung thư vú
Vài đóng góp quan trọng của người Việt khoa học thống kê
Văn hóa khoa học
Văn hóa tranh luận và vấn đề ngụy biện
Vấn đề sinh tố: kẽm và đồng
Vấn đề truy tìm ung thư phổi và hiệu quả 
Vấn đề y đức trong nghiên cứu tế bào mầm (stem cells)
Vấn đề đo lường melamine
Vấn đề đào tạo tiến sĩ: kinh nghiệm từ Australia
Vắc-xin phòng chống ung thư cổ tử cung
Vắcxin ngừa viêm gan B: cẩn thận với “nhiễu thông tin”
Vắcxin ngừa viêm gan B: kinh nghiệm từ nước ngoài
Vắcxin phòng bệnh sởi - quai bị - Rubella: lợi và hại
Vắcxin phòng chống ung thư cổ tử cung: hiệu quả lâm sàng và kinh tế
Vắcxin phòng ngừa bệnh tả: rất cần thiết
Về chấn chỉnh đào tạo tiến sĩ: Công bố bài báo khoa học là một thách thức lớn ?
Về học vị tiến sĩ
Về một sự hiểu lầm thuật ngữ "prospective"
Về phản ứng phụ của bisphosphonates liên quan đến hoại tử xương hàm và rung nhĩ
Vệ sinh như là một loại hàng hóa
Vị thế của nền khoa học Việt Nam
Xung quang xì căng đan về nghiên cứu tế bào mầm
Xã hội hóa và an toàn thực phẩm
Xếp hạng đại học: cần minh bạch hóa phương pháp
Y học hiện đại và những hứa hẹn
Y học thực chứng: vài nét khái quát
Y Khoa và những nhầm lẫn chết người
Y tế dự phòng: nền tảng của y khoa hiện đại
Y đức và nghiên cứu y học
Ói mửa, cao huyết áp và hôn mê
Ăn chay như là một trị liệu
Ăn chay và loãng xương
Điều trị bệnh dựa vào màu da ?
Điều trị đau dây thần kinh tọa bằng phẫu thuật: không có hiệu quả
Đo lường hiệu suất khoa học
Đánh giá đúng tầm quan trọng của ung thư vú 
Đại dịch H1N1
Đại dịch và đại dịch ảo
Đại dịch đã đến ?
Đạo văn trong hoạt động khoa học
Đậu nành và sức khỏe: đâu là thực và đâu là giả
Đậu nành và sức khỏe: đâu là thực và đâu là giả
Đằng sau những con số hàm lượng đạm trong sữa
Đế quốc Trà
Đề bạt các chức danh khoa bảng: vài kinh nghiệm từ Úc
Đọc lại 12 điều y đức của Việt Nam
Đồi điều về sữa nhiễm melamine
Đừng quên melamine trong các thực phẩm khác!
Ước vọng 200 ?
“Kỹ năng mềm” cho nhà khoa học
“Sẽ” và “có thể”


Trang nhiều tác giả
Trang riêng của Lê Ngọc Dũng
Trang riêng của Lương Lễ Hoàng
Trang riêng của Nguyễn Bảo Trung
Trang riêng của Nguyễn Hoài Nam
Trang riêng của Nguyễn Hữu Đức
Trang riêng của Nguyễn Văn Tuấn
Trang riêng của Nguyễn Ý Đức
Trang riêng của Nguyễn Đình Nguyên
Trang riêng của Phan Xuân Trung
Trang riêng của Đỗ Hồng Ngọc
Trang riêng của Đỗ Minh Tuấn