NGUYỄN VĂN TUẤN

Cần điều tra về chất lượng bệnh viện

Nguyễn Văn Tuấn - YKHOANET 03/5/2007

            Tiêm văcxin, hai trẻ sơ sinh thiệt mạng.  Cắt a-mi-đan, một cháu gái 14 tuổi thiệt mạng.  Gây mê nhầm bệnh nhân xảy ra tại Bệnh viện Chợ Rẫy trong tình trạng nguy kịch.  Răng bị sâu không được nhổ, răng lành bị nhổ.  Có thai ngoài tử cung, chẩn đoán viêm dạ dày.  Đó là những tiêu đề về “tai nạn” và sự cố y khoa được Tuổi Trẻ và các báo khác liên tiếp đưa tin trong suốt vài tuần qua.  Không ngạc nhiên chút nào khi những bản tin như thế làm cho dư luận quần chúng càng ngày càng quan tâm đến chất lượng chăm sóc sức khỏe tại các bệnh viện trên toàn quốc, vì những sự cố này liên quan đến tử vong, thảm cảnh cho gia đình nạn nhân.

            Nhưng sẽ không công bằng nếu cho rằng những tai nạn như thế chỉ xảy ra ở nước ta, trong điều kiện cơ sở vật chất y tế còn nhiều thiếu thốn.  Ngay cả ở những nước tiên tiến, có nền y tế hiện đại nhất thế giới như Mĩ cũng xảy ra những trường hợp đáng tiếc.  Cách đây vài năm, một danh hài người Mĩ, Dana Carvey, cũng kinh qua một nhầm lẫn y khoa nguy hiểm.  Hai tháng sau khi Carvey trải qua một cuộc giải phẫu cơ tim nhân tạo, ông được bác sĩ cho biết rằng họ đã thay nhầm động mạch!  Thế là người nghệ sĩ danh tiếng 45 tuổi này phải một lần nữa trải qua một cuộc giải phẫu khẩn cấp để cứu mạng.  Trước đó, một trường hợp nhầm lẫn được báo chí phanh phui làm chấn động dư luận: đó là trường hợp của ông Morson Tarason, 79 tuổi, được vào bệnh viện Đại học Pennsylvania (bang Philadelphia) để giải phẫu chữa trị lá phổi bên trái; nhưng thay vì chữa trị lá phổi bị bệnh đó, các bác sĩ đã cắt nhầm lá phổi tốt bên phải!  Đau lòng hơn, sau khi các bác sĩ đã biết được sự nhầm lẫn của mình, họ bèn âm thầm và thản nhiên hẹn cụ trở lại bệnh viện để làm một ca giải phẫu thứ hai để chữa trị lá phổi trái!  Tháng 11 năm 1994, hai bệnh nhân nữ được điều trị tại Viện ung thư Dana-Farber (một trung tâm y tế danh tiếng của Mĩ ở Boston) và do tính toán sai, cả hai bệnh nhân “bị” đầu độc với liều lượng hóa chất quá cao, và hậu quả là cả hai bệnh nhân đều qua đời vì độc chất.

            Đó là những “tai nạn” và sự cố y khoa nổi tiếng được báo chí nhắc đến, nhưng trong thực tế có đến hàng triệu trường hợp khác không hề được công bố, thậm chí bệnh nhân (hay nạn nhân) chẳng hề hay biết.  Theo một nghiên cứu qui mô ở Mĩ, khoảng 4% bệnh nhân được điều trị trong các bệnh viện Mĩ là nạn nhân của các sai lầm y khoa.  Sai lầm và “tai nạn” y khoa xảy ra ở các bệnh viện Úc, Canada và Âu châu dao động từ 7% đến 17%.  Trong số này, một phần ba là do cẩu thả trong khi điều trị và 70% là do lỗi lầm của bác sĩ, dược sĩ, và điều dưỡng. 

Hệ quả của sai lầm y khoa mới là điều đáng quan tâm.  Vẫn theo nghiên cứu ở Mĩ, Úc và Âu châu, khoảng 13% đến 16% các sai lầm y khoa dẫn đến tử vong, và 3% dẫn đến thương tật vĩnh viễn.  Ở Mĩ, các nhà nghiên cứu ước tính rằng mỗi năm có khoảng 120.000 người chết vì sai lầm và tai nạn y khoa, cao gấp 3 lần số tai nạn xe hơi.  Chi phí hàng năm liên quan tới những trường hợp thương vong này được ước tính khoảng 8,8 USD.  Ở Úc, mỗi năm có đến 14.000 người bị thiệt mạng và 50.000 người bị thương tật vĩnh viễn do những lỗi lầm trong bệnh viện (dân số Úc khoảng 20 triệu).

            Ở Mĩ, trước hệ quả nghiêm trọng của sai lầm và “tai nạn” trong các bệnh viện, Tổng thống Bill Clinton cho thành lập và trực tiếp chỉ đạo một ủy ban tiến hành điều tra toàn quốc về những sai lầm y khoa và thẩm định chất lượng y tế tại các bệnh viện. 

            Có nhiều nguyên nhân dẫn đến sai lầm y khoa và gây tử vong cho bệnh nhân.  Chẩn đoán sai, điều trị không đúng với qui trình, tai nạn hay sự cố trong khi và sau phẫu thuật, cho thuốc sai liều lượng, vấn đề kĩ năng, v.v… là những nguyên nhân phổ biến nhất.  Nhưng những yếu tố an toàn cho bệnh nhân rất khác biệt giữa các địa phương và bệnh viện.  Một nghiên cứu qui mô khác ở Mĩ cho thấy tỉ lệ tử vong sau phẫu thuật tim can thiệp ở bệnh nhân tại các bệnh viện thuộc bang Texas cao hơn tỉ lệ ở các bệnh viện bang new York khoảng 55%.  Tương tự, tỉ lệ tử vong bệnh tai biến mạch máu não ở các bệnh nhân điều trị tại các bệnh viện thuộc bang Mississippi cao hơn tỉ lệ ở bệnh nhân bang Colorado khoảng 50%.  Một nghiên cứu ở Anh trong ba nhóm bệnh viện đại học, bệnh viện vùng và bệnh viện đại phương cho thấy tỉ lệ tử vong ở các bệnh nhân suy tim cấp tính rất khác khau giữa các bệnh viện trong cùng một nhóm: tỉ lệ tử vong trong khi nằm viện và trong vòng 1 năm sau khi xuất viện trong các bệnh viện dao động từ 8% đến 24%!

Thật vậy, trong y tế, nhiều khi địa phương đồng nghĩa với định mệnh.  Chẳng hạn như ở bang Vermont (Mĩ), tỉ lệ trẻ em cắt a-mi-đan dao động từ 8% ở một số thành phố đến 70% ở vài thành phố khác.  Ở bang Maine (Mĩ), tỉ lệ phụ nữ ở độ tuổi 70 giải phẫu cắt bỏ tử cung dao động từ 20% ở vài thành phố đến 70% ở các thành phố khác.  Ở bang Iowa, tỉ lệ đàn ông [tính đến độ tuổi 85] giải phẫu tuyến tiền liệt khác nhau giữa các thành phố từ 15% đến 60%.

            Tại sao mức độ khác biệt về chữa trị lại lớn như thế?  Theo các nhà nghiên cứu, “tập quán” là yếu tố chính có thể giải thích cho sự khác biệt về chữa trị giữa các địa phương.  Ngoài ra, sự chuyên khoa hóa trong y học cũng là một yếu tố đáng kể.  Chẳng hạn như chữa trị ung thư tuyến tiền liệt tùy thuộc vào bác sĩ nào mà bệnh nhân đến khám.  Ở Mĩ, một nghiên cứu cho thấy 80% các bác sĩ niệu khuyên bệnh nhân nên giải phẫu tuyến tiền liệt, nhưng 90% các bác sĩ ung thư và quang tuyến đề nghị chữa trị bằng quang tuyến.

            Thông thường, khi tai nạn hay sự cố y khoa xảy ra, người ta tìm một “thủ phạm” để đổ lỗi.  Đối với nạn nhân hay thân nhân của nạn nhân, việc tìm nhân tố gây ra sự cố có thể làm cho họ hài lòng vì xem như đã giải quyết một câu hỏi.  Nhưng sự thật là tất cả các bác sĩ đều hết lòng vì bệnh nhân; không một bác sĩ và nhân viên y tế nào muốn gây tai nạn.  Vấn đề là hệ thống và môi trường làm việc.  Thật vậy, đứng trên quan điểm giải quyết vấn đề ở qui mô quốc gia, tai nạn y khoa không đơn giản là vấn đề cá nhân, mà là vấn đề của hệ thống: hệ thống điều hành bệnh viện, phân phối thuốc, an toàn lâm sàng, hệ thống báo động, v.v… Đó chính là những vấn đề cần điều nghiên để tiến đến một giải pháp hệ thống nhằm giảm sự cố và tai nạn trong các bệnh viện.

            Ở nước ta, chưa có những nghiên cứu tương tự để biết qui mô của vấn đề.  Tuy nhiên, nếu chấp nhận tỉ lệ tai nạn 7% (tần số trung bình ở Mĩ, Úc, Canada và Âu châu), với tổng số bệnh nhân điều trị nội trú 7.050.000 (số liệu Bộ Y tế năm 2003), có thể ước tính rằng mỗi năm ở nước ta có 493.500 bệnh nhân bị “tai nạn” y khoa trong các bệnh viện.  Và, vẫn theo kinh nghiệm ở Mĩ (khoảng 14% “tai nạn” y khoa dẫn đến tử vong) có thể ước tính rằng nước ta có khoảng 67.000 bệnh nhân bị chết “oan” hàng năm.  Đó là một con số tử vong rất lớn, cao gấp 3 lần số tử vong vì tai nạn giao thông, và chiếm khoảng 13% tổng số tử vong của cả nước (khoảng 515.000 tử vong, số liệu năm 2002). 

Mỗi cái chết là một thảm cảnh.  Do đó, những con số trên không phải là những thống kê vô hồn, mà là một tang tóc lớn.  Chúng ta cần phải giảm, hay tốt hơn nữa ngăn ngừa, tai nạn y khoa, để thực hiện phương châm và cũng là nguyên tắc số 1 của nghề y là không hại người.  Nhưng chúng ta không thể quản lí vấn đề, nếu không đo lường được vấn đề.  Chúng ta khẩn cấp cần một nghiên cứu qui mô toàn quốc để so sánh các chỉ tiêu an toàn lâm sàng và đối chiếu chất lượng chăm sóc sức khỏe giữa các bệnh viện. 

 

 


200 năm Darwin
Agent Orange: collateral damage
Alexandre Yersin và Việt Nam
Bàn về hiệu quả vắcxin: lâm sàng và kinh tế
Bàn về vấn đề dịch thuật và đánh giá năng suất khoa học
Béo phì ở người Á châu
Béo phì ở trẻ em và virus
Bình luận từ Dr. Yến
Bưởi không gây ung thư vú
Bảo hiểm y tế cộng đồng
Bảo tồn môi sinh: Chiến tranh giữa hai thế giới
Bằng chứng khoa học thay vì lên lớp
Bệnh tả: không để Việt Nam thành Bangladesh thứ hai
Bệnh tật nhìn từ quan điểm của thuyết tiến hóa
Bệnh xơ hóa cơ delta qua y văn thế giới
Bổ sung kẽm và điều trị bệnh tả
Bộ gen trong cây lúa và triển vọng
Bộ Y tế phản ứng chậm với rét đậm
Chiều cao của người Việt
Chiều cao và tổng thống Mĩ
Cholesterol và bệnh Tim
Cholesterol: hung thần hay bạn?
Chuột và... các nhà khoa học
Chính sách y tế cần dựa vào bằng chứng khoa học
Chạy đua vũ khí và … dịch cúm
Chất béo, cholesterol, bệnh tim và statins: xét lại bằng chứng
Chất keo xã hội: hormones
Chất lượng nghiên cứu dịch tễ học và y tế cộng đồng của Việt Nam qua chỉ số H
Chất lượng nghiên cứu khoa học ở Việt Nam qua chỉ số trích dẫn
Chất vấn chuẩn chẩn đoán béo phì
Chế độ ăn uống với nhiều thịt động vật và nguy cơ tử vong
Chủng vi khuẩn tả hiện nay ở nước ta có phải mới xuất hiện?
Cuộc chiến hóa học phi pháp lớn nhất trong lịch sử chiến tranh
Câu chuyện y học: Leptin và béo phì
Có bao nhiêu bác sĩ viết chữ khó đọc
Có nên tập trung vào vi khuẩn E. coli ?
Có thể xảy ra đại dịch cúm gia cầm?
Công cụ đơn giản để chẩn đoán tiểu đường ở người Đông Nam Á
Cúm gia cầm và nhiễu thông tin
Cúm H1N1: biết và chưa biết
Cơ hội để khép lại một chương lịch sử đau lòng
Cần hiểu đúng về Ung thư và nguy cơ ung thư
Cần qui ước đạo đức cho kĩ nghệ thực phẩm
Cần tiêm chủng ngừa bệnh tả vùng có nguy cơ cao
Cần điều tra về chất lượng bệnh viện
Cổ phần hóa bệnh viện công và chất lượng
Cổ phần hóa: chưa phải cách duy nhất
DDT và vấn đề cân đối giữa lợi ích và nguy hiểm
Dinh dưỡng: một nguồn thuốc quí giá
DNA không nói dối, nhưng DNA có thể nói … sai
Dịch cúm gà: hoang mang và sự thật khoa học
Dịch cúm heo và tác hại kinh tế
Dịch tay-chân-miệng
Dịch tả: gọi đúng tên để phòng ngừa
Dựa vào khoa học, đừng dựa vào niềm tin!
E. coli – vài câu hỏi thông thường
Gen và bệnh tật
Ghen tuông dưới cái nhìn của tâm lí y khoa
Gian lận trong nghiên cứu khoa học: áp lực kinh tế và cơ chế bình duyệt
GIÁO DỤC ĐẠI HỌC: KHƠI DẬY VÀ NUÔI DƯỠNG TÍNH HAM HỌC
Giải nobel y học hay sinh lí học 2007 và lợi ích cho người bệnh
Giải Nobel Y sinh học 2008 và những tranh chấp khoa học
Giải Nobel y sinh học 2010 vinh danh người đem niềm vui cho người vô sinh
Giải Nobel y sinh học năm 2005: Một cõi đi về với vi khuẩn
Giải Nobel y sinh học: Nhìn lại quãng đường 100 năm
Giải phẫu ghép mặt và vấn đề y đức
Gout ở xương sống
Gãy xương và tử vong: một vấn nạn y tế cộng đồng
Hiệu quả vắcxin có nghĩa gì?
Hoa vàng mấy độc
Hàm lượng đạm trong sữa “siêu thấp” hay “siêu cao”?
Hóa chất khai hoang trong cuộc chiến Viện Nam: Qui mô và tầm ảnh hưởng
Hướng đi nào để giải quyết vấn đề chất độc da cam ở Việt Nam
Hậu “mắm tôm được minh oan”: bằng chứng khoa học, nhà xí và nghiên cứu
Hệ Thống Học Vị Và Học Hàm Khoa Học Ở Vài Nước Tây Phương
Hợp tác khoa học kiểu nhảy dù - Nguyễn Văn Tuấn
Khi bác sĩ trẻ “khoe” quá nhiều
Khoa học và ngụy khoa học: một vài đặc điểm và khác biệt cần biết
Khoa học, xã hội, và rủi ro
Không thể thành Phù Đổng trong 20 năm!
Khẩu trang và phòng chống cúm A/H1N1
Kiểm định giả thuyết mắm tôm và vi khuẩn tả
Liều lượng melamine bao nhiêu là an toàn?
Lí lịch sinh học của heo và dấu vết văn minh nông nghiệp Đông Nam Á
Lượng giá mạng sống con người
Lợi ích của vitamin D
Miệng nhà quan
Mắm tôm có phải là “thủ phạm” gây bệnh tả? Xét lại bằng chứng khoa học
Mắm tôm và chuyện xin lỗi
Mắm tôm và dịch tả: phân biệt yếu tố nguy cơ và nguyên nhân
Mắm tôm vô tội!
Mắm tôm, nguyên nhân và hệ quả
Mối quan hệ giữa giới y khoa và kĩ nghệ dược
Mối quan hệ giữa giới y khoa và kĩ nghệ dược
Một bệnh hiếm X-linked recessive hypoparathyroidism
Một lần đi phỏng vấn
Một năm nhìn lại
Một phán quyết thiếu cơ sở khoa học
Một vài hiểu lầm tai hại
Một vài ngộ nhận về nghiên cứu khoa học
Một vài vấn đề về qui định chức danh giáo sư ở Việt Nam
Một vụ Madoff trong y khoa: Lại một ngôi sao y khoa rơi rụng!
Mỡ trắng, mỡ nâu
Mỡ  trong máu, huyết áp, và  tiểu đường
Nghiên cứu y học ở Việt Nam: Đặc điểm, thiếu sót, và sai sót
Nghiên cứu y học ở Việt Nam: Đặc điểm, thiếu sót, và sai sót
Nguyên nhân bệnh tiêu chảy
Ngó trên tay điếu thuốc đã lụi dần
Người cao tuổi và sự hạn chế của y khoa
Người ăn chay có mật độ xương như người ăn mặn
Người ăn chay có mật độ xương như người ăn mặn
Nhân chuyện dịch tả nhớ lại John Snow
Nhân câu chuyện điện não đồ xét nghiệm nghiện ma túy:
Nhân năm khỉ_nguồn gốc con người hiện đại
Nhân năm Tý bàn chuyện thí nghiệm trên chuột
Nhìn lại khoa học Việt Nam năm 2008 qua công bố quốc tế
Nhầm lẫn trong y khoa: Khá phổ biến, nhưng ít ai biết!
Những câu hỏi và trả lời về dịch gia cầm
Những sai sót khó tin nhưng có thật
Những sai sót nguy hiểm trong toa thuốc
Những điều khó tin về “Bảy điều khó tin nhất trong y học”
Năm lí do cho mắm tôm “vô tội”
Phán quyết sau cùng: Chất béo không ảnh hưởng đến ung thư và bệnh tim
Phát hiện gien kiểm soát ráy tai: vài bài học về mò kim đáy biển
Phòng chống bệnh phải dựa vào bằng chứng khoa học!
Phòng chống H1N1 bằng rửa tay và khẩu trang: Biện pháp nào hiệu quả hơn?
Qui định cấp giấy phép lái xe dựa vào chiều cao và cân nặng: thiếu cơ sở khoa học và kì thị giới tính
Qui định cấp giấy phép lái xe dựa vào chiều cao: vấn đề giả định và bằng chứng khoa học
Quyền phê phán và trí thức
Quyền được tiếp cận hồ sơ bệnh án
Quản lý chất lượng: Thuốc phòng "tai nạn y khoa"
Rửa tay bằng xà phòng và tiêu chảy
Serotonin có liên quan đến chứng đột tử
Suy dinh dưỡng ở trẻ em: vấn đề của kinh tế
Sàng lọc trẻ sơ sinh trên phạm vi toàn quốc
Tai nạn y khoa trong bệnh viện
Thế nào là một "bài báo khoa học"
Thế nào là “Cơ sở khoa học” ?
Thịt chó là nguyên nhân của bệnh tiêu chảy cấp tính?
Thịt chó và bệnh tả: nguyên nhân và yếu tố nguy cơ
Tiên lượng bệnh Alzheimer bằng protein expression ?
Tiêu chuẩn chất lượng giáo dục đại học
Tiêu chuẩn chẩn đoán béo phì cho người Việt - Nguyễn Văn Tuấn
Tiêu chuẩn chẩn đoán bệnh đái tháo đường (diabetes mellitus)
Tiêu chuẩn đề bạt giáo sư: Có nên căn cứ vào số lượng bài báo ?
Tiêu chảy cấp tính và bệnh tả: Định danh cho đúng
Truy tìm ung thư bằng mammography từ tuổi 50
Truyền thông và khoa học: Qui ước Ingelfinger
Truyền thông và y tế
Truyền thông, khoa học và … doanh nghiệp
Trà xanh và sức khỏe
Trách nhiệm và nhân đạo trong vấn đề chất độc da cam
Trái chanh và phòng chống bệnh tả
Trả lời những câu hỏi liên quan đến loãng xương
Trọng lượng cơ thể và tử vong ở người Trung Quốc: Ý nghĩa về việc xác định tiêu chuẩn chẩn đoán béo phì
Tuổi thọ của người dân giảm 10 năm ?
Tác dụng Placebo trong y học: Tâm lí và ý nghĩa
Tình yêu, sắc đẹp nhìn dưới quan điểm di truyền học
Tín hiệu môi trường từ những “làng ung thư”
Tính khoa học và minh bạch đằng sau xét nghiệm doping
Tại sao không phát biểu về nguyên nhân và hệ quả ?
Tại sao uống rượu gây đỏ mặt và nguy cơ ung thư thực quản
Tạo sinh vô tính và cái chết của Thượng đế
Tạo sinh vô tính và vấn đề sinh đạo đức
Tản mạn về SARS
Tỉ lệ tử vong do cúm heo là bao nhiêu ?
Tự trị, chất lượng và y đức thay vì cổ phần hóa bệnh viện công
Ung thư vú và vấn đề thông tin y khoa
Uống bia hấp dẫn muỗi
Vaccine phòng chống AIDS hiệu quả đến đâu ?
Vaccine phòng chống cúm A/H1N1
Vi khuẩn gây tiêu chảy và ý nghĩa tiêm chủng
Vi khuẩn tả trong chó ?
Viết văn có thể chữa nhiều loại bệnh
Viết văn và trị liệu
Việc ta, ta cứ làm!
Vài nhận xét về 12 điều lệ y đức của Việt Nam
Vài thông tin cần biết về các chương trình truy tìm ung thư vú
Vài đóng góp quan trọng của người Việt khoa học thống kê
Văn hóa khoa học
Văn hóa tranh luận và vấn đề ngụy biện
Vấn đề sinh tố: kẽm và đồng
Vấn đề truy tìm ung thư phổi và hiệu quả 
Vấn đề y đức trong nghiên cứu tế bào mầm (stem cells)
Vấn đề đo lường melamine
Vấn đề đào tạo tiến sĩ: kinh nghiệm từ Australia
Vắc-xin phòng chống ung thư cổ tử cung
Vắcxin ngừa viêm gan B: cẩn thận với “nhiễu thông tin”
Vắcxin ngừa viêm gan B: kinh nghiệm từ nước ngoài
Vắcxin phòng bệnh sởi - quai bị - Rubella: lợi và hại
Vắcxin phòng chống ung thư cổ tử cung: hiệu quả lâm sàng và kinh tế
Vắcxin phòng ngừa bệnh tả: rất cần thiết
Về chấn chỉnh đào tạo tiến sĩ: Công bố bài báo khoa học là một thách thức lớn ?
Về học vị tiến sĩ
Về một sự hiểu lầm thuật ngữ "prospective"
Về phản ứng phụ của bisphosphonates liên quan đến hoại tử xương hàm và rung nhĩ
Vệ sinh như là một loại hàng hóa
Vị thế của nền khoa học Việt Nam
Xung quang xì căng đan về nghiên cứu tế bào mầm
Xã hội hóa và an toàn thực phẩm
Xếp hạng đại học: cần minh bạch hóa phương pháp
Y học hiện đại và những hứa hẹn
Y học thực chứng: vài nét khái quát
Y Khoa và những nhầm lẫn chết người
Y tế dự phòng: nền tảng của y khoa hiện đại
Y đức và nghiên cứu y học
Ói mửa, cao huyết áp và hôn mê
Ăn chay như là một trị liệu
Ăn chay và loãng xương
Điều trị bệnh dựa vào màu da ?
Điều trị đau dây thần kinh tọa bằng phẫu thuật: không có hiệu quả
Đo lường hiệu suất khoa học
Đánh giá đúng tầm quan trọng của ung thư vú 
Đại dịch H1N1
Đại dịch và đại dịch ảo
Đại dịch đã đến ?
Đạo văn trong hoạt động khoa học
Đậu nành và sức khỏe: đâu là thực và đâu là giả
Đậu nành và sức khỏe: đâu là thực và đâu là giả
Đằng sau những con số hàm lượng đạm trong sữa
Đế quốc Trà
Đề bạt các chức danh khoa bảng: vài kinh nghiệm từ Úc
Đọc lại 12 điều y đức của Việt Nam
Đồi điều về sữa nhiễm melamine
Đừng quên melamine trong các thực phẩm khác!
Ước vọng 200 ?
“Kỹ năng mềm” cho nhà khoa học
“Sẽ” và “có thể”


Trang nhiều tác giả
Trang riêng của Lê Ngọc Dũng
Trang riêng của Lương Lễ Hoàng
Trang riêng của Nguyễn Bảo Trung
Trang riêng của Nguyễn Hoài Nam
Trang riêng của Nguyễn Hữu Đức
Trang riêng của Nguyễn Văn Tuấn
Trang riêng của Nguyễn Ý Đức
Trang riêng của Nguyễn Đình Nguyên
Trang riêng của Phan Xuân Trung
Trang riêng của Đỗ Hồng Ngọc
Trang riêng của Đỗ Minh Tuấn