NGUYỄN VĂN TUẤN

Dinh dưỡng: một nguồn thuốc quí giá 

Nguyễn Văn Tuấn

Thuốc men ngày nay được bào chế chủ yếu là ngăn chận triệu chứng của bệnh, chứ không hẳn ngăn chận bệnh.  Một thuốc có giá trị thực sự phải có khả năng khắc phục những căn bệnh thoái hóa như viêm khớp xương và Alzheimer's, và những thuốc như thế chỉ có thể dựa vào chế độ ăn uống hàng ngày.  Nhưng các công ti dược sẽ không thích nghe quan điểm này.

Xuyên suốt lịch sử con người, hai căn bệnh nguy hiểm hàng đầu có khả năng giết chết nhiều người là truyền nhiễm và thương tật do tai nạn gây ra.  Nhưng ngày nay, phần lớn dân số không chết vì bệnh truyền nhiễm hay thương tật, mà chết vì những căn bệnh mang tính thoái hóa với tuổi già như bệnh tim mạch, viêm khớp xương, đái tháo đường, ung thư, bệnh Alzheimer, v.v…

Theo thống kê, hiện nay cứ 6 người trong độ tuổi 60 trở lên thì có 5 người mắc một trong những bệnh trên.  Thuốc có thể kiềm chế triệu chứng, nhưng thuốc không có hiệu quả gì đáng kể trong việc làm thay đổi cơ chế của căn bệnh, nếu không muốn nói là thuốc còn làm cho chúng ta bị bệnh nhiều hơn vì phản ứng và biến chứng của thuốc.  Cái ý tưởng “magic bullet” (viên đạn kì diệu) vào thế kỉ 19 được các nhà khoa học tin tưởng và quảng bá đã cho ra đời ra công nghệ dược học.  Phần lớn thuốc dùng để điều trị bệnh tật ngày nay được sản xuất từ công nghệ này.  Cái ý tưởng “viên đạn kì diệu” cho rằng chỉ cần một thuốc duy nhất để chinh phục các chứng nan y.  Thế nhưng trong thực tế chiến lược này ít khi nào chữa bệnh, mà chỉ kiềm chế triệu chứng bệnh, và thường hay gây ra nhiều phản ứng có khi rất nghiêm trọng.

Có thể nói rằng y khoa hiện đại là một khoa học và nghệ thuật quản lí khủng hoảng sinh học: Chờ cho đến khi chẩn đoán, và sau đó là điều trị.  Nhưng đến khi triệu chứng của căn bệnh xuất hiện, cơ thể đã bị tổn thương đến độ thuốc men không thể giải quyết được.  Những bệnh thoái hóa với tuổi tác như bệnh tim mạch và bệnh Alzheimer thường trải qua một giai đoạn âm ỉ khá lâu trước khi biểu hiện triệu chứng.  Nhưng chẩn đoán, một phần lớn, dựa vào triệu chứng.  Thành ra, đại đa số những người bề ngoài có vẻ khỏe mạnh nhưng trong thực tế là những người ở vào giai đoạn tiền bệnh.  Cơ thể chúng ta hàm chứa những “hạt giống” của bệnh tật, mà đến một ngày nào đó chúng phát triển trở nên hiển nhiên và giết chúng ta.  Trong cơ thể chúng ta hiện nay, động mạch đang xơ cứng dần dần, xương đang dần dần loãng đi, các tế bào não chết dần chết mòn, và cuối cùng dẫn đến đau tim, gãy xương, hay mất trí.

Nhưng có phải những bệnh này quả là thoái hóa và vô phương cứu chữa?  Y học phòng ngừa đặt trọng tâm vào giai đoạn tiền bệnh, phân tích những hư hỏng trong hệ thống nội tiết dẫn đến bệnh tật.  Trường phái y học này có khả năng ngăn ngừa bệnh trước khi triệu chứng xuất hiện.

Ở bình diện cá nhân, các bệnh thoái hóa thường, một phần nào đó, do các yếu tố di truyền gây ra.  Ở bình diện quần thể, nhiều nghiên cứu trong người di cư cho thấy nhiều bệnh gọi là thoái hóa này, một phần lớn, do các yếu tố liên quan đến môi trường sống, cụ thể là lối sống như thói quen hút thuốc, uống rượu, vận động và chế độ ăn uống.  Dinh dưỡng, hay chế độ ăn uống, là yếu tố hiển nhiên và rất dễ thay đổi.  Thức ăn mà chúng ta dùng hàng ngày có ảnh hưởng sâu xa đến hệ thống nội tiết; và do đó là một phương tiện vừa thực tế vừa hữu hiệu để có thể làm thay đổi cán cân bệnh tật.  Quan điểm này cũng được Liên hiệp quốc ghi nhận trong một báo cáo khoa học “Chế độ ăn uống, dinh dưỡng, và phòng ngừa bệnh mãn tính”, mà trong đó các nhà nghiên cứu chủ trương dùng chế độ ăn uống như là một phương thuốc dùng để phòng ngừa các bệnh mãn tính.

Tất cả các tế bào đều hoạt động liên tục, nhưng phía ngoài chúng lại cho người ta một ấn tượng bất biến.  Ấn tượng bất biến này là một trá hình cho một tình trạng thay đổi liên tục, với quá trình hủy diệt và tái sản sinh xảy ra song song nhau trong từng giây phút.  Bất cứ thời điểm nào, trong xương luôn luôn có hai tế bào hủy xương và tạo xương liên tục hoạt động.  Tế bào atheroma cũng liên tục “chết” và “sống lại” bên trong các động mạch.  Nếu quá trình đồng hóa (anabolic, hay tái sản sinh) và dị hóa (catabolic, hủy diệt) cân bằng, các mô trong cơ thể không bị tổn hại và sức khỏe lành mạnh.  Nhưng nếu tỉ lệ phân rã nhanh hơn tỉ lệ hồi phục, một số mô và tế bào lành mạnh sẽ bị mất đi, và tình trạng tiền bệnh bắt đầu có mầm móng phát triển.  Qua một thời gian dài ngấm ngầm như thế, triệu chứng bắt đầu xuất hiện.  Trong nhiều trường hợp, quá trình tiền bệnh này là hậu quả của vấn đề thiếu các chất mà tôi tạm gọi là đa vi dinh dưỡng (còn gọi là multiple micro-nutrient depletion).

Nhiều nghiên cứu trên qui mô quốc gia (nghiên cứu lớn nhất do Bộ Nông nghiệp Mĩ tiến hành) cho thấy tình trạng kém dinh dưỡng khá phổ biến trong các nước đã phát triển.  Tình trạng “kém dinh dưỡng” ở đây không phải là thiếu calorie hay thiếu vi dinh dưỡng thường thấy trong các nước đang phát triển (thường được gọi ví von là “Suy dinh dưỡng dạng A”); nhưng là tình trạng mất cân bằng các chất vi dinh dưỡng và dẫn đến tình trạng thừa calorie (còn gọi ví von là “Suy dinh dưỡng dạng B”).  Trong một nghiên cứu do Bộ Nông nghiệo Mĩ tiến hành, các nhà nghiên cứu đo lường mức độ dinh dưỡng tiếp thu bằng đơn vị cổ điển là RDA (recommended dietary allowances), tức là chế độ ăn uống được đề nghị nhằm mục đích ngăn ngừa một số bệnh.  Tỉ lệ phát sinh suy dinh dưỡng dạng B càng nghiêm trọng nếu các nhóm vi dinh dưỡng mới như acid béo, các chất sợi (fibre), xanthophylls, flavonoids, vân vân.  Mức độ tiếp thu những chất vi dinh dưỡng này trong các nước đã phát triển rất thấp.

Tình trạng suy dinh dưỡng dạng B phổ biến trong các nước đã phát triển có nhiều nguyên nhân: Thứ nhất, cơ thể con người được “thiết kế” để sống một cuộc sống hoạt động tích cực, để tiêu thụ từ 3.000 đến 4.000 calories mỗi ngày.  Ngày nay, xã hội chúng ta không phải là xã hội săn bắt – hái lượm như thời xưa, chúng ta sống một cuộc sống thiếu vận động và không cần nhiều calorie.  Sự thèm khát của chúng ta đã suy giảm nhiều (nhưng vẫn chưa giảm nhanh tho tốc độ của xã hội chúng ta đang sống, và điều này giải thích tại sao chúng ta càng ngày càng phì ra).  Khi chúng ta ăn ít, chúng ta cũng dùng ít các chất vi dinh dưỡng.

Thứ hai, phần lớn những thực phẩm làm sẵn (nhu mì ăn liền) không chứa đầy đủ các chất vi dinh dưỡng, và càng ngày chúng ta càng dùng nhiều thực phẩm loại này.  Ở Anh, theo một cuộc điều tra dinh dưỡng gần đây, tỉ lệ tiêu thụ rau và trái cây giảm 7 phần trăm trong thời gian 2001 và 2002.

Thứ ba, phần lớn đất trồng trọt chứa ít các chất khoáng quan trọng, hay trở nên thoái hóa do trồng trọt [và lạm dụng đất] quá mức.  Cây cỏ và động vật được trồng trọt hay nuôi trong môi trường này cũng thiếu chất khoáng, và điều này giải thích tại sao hàm lượng selenium trong các nước Tây phương hiện nay rất thấp.

Thứ tư là vấn đề hút thuốc lá, tắm nắng, ô nhiễm môi trường, và sử dụng quá liều lượng rượu bia, tất cả đều làm cho cơ thể chúng ta thiếu chất antioxidant.

Thứ năm, chúng ta càng ngày càng trở nên suy dinh dưỡng theo độ tuổi.

Chế độ ăn uống hơn là thuốc

Cho đến nay, có nhiều bằng chứng, như trình bày trong bản báo cáo của Tổ chức y tế thế giới và một số báo cáo của các cơ quan chuyên môn khác, cho thấy suy dinh dưỡng dạng B là một nguyên nhân chính gây ra các chứng bệnh mãn tính.  Nếu giả thiết này đúng, thì cái logic của việc chữa trị những chứng bệnh là bổ sung nhiều chất vi dinh dưỡng (hay có thể gọi là “pharmaco-nutrition – dược dinh dưỡng), chứ không phải thuốc được chế biến bằng hóa chất.  Dược dinh dưỡng có thể sử dụng dưới hình thức thuốc viên, hay thực phẩm tính năng (“functional foods.”)  Phương cách này chưa bao giờ được chú ý đúng mức, vì nó không đem lại lợi nhuận cho các công ti thuốc.  Các công ti thuốc không thể đăng kí bản quyền sáng chế dược dinh dưỡng hay những thực phẩm tính năng.  Do đó phương cách trị bệnh bằng dược dinh dưỡng không phù hợp với lợi ích của y học hiện đại, một nền y học dựa vào chủ nghĩa can thiệp là chính.

Hơn 100 năm nay, kĩ nghệ dược đã đầu tư một số vốn khổng lồ vào việc phát triển hàng loạt thuốc tinh vi và mạnh để điều trị nhiều căn bệnh quan trọng.  Hệ thống đào tạo y khoa được tiến hành trong môi trường và phạm vi của kĩ nghệ dược, và hệ thống này đã cung cấp cho chúng ta một khối lượng thuốc khổng lồ để điều trị những bệnh cấp tính hay trong trường hợp khẩn cấp.

Tuy nhiên, mô hình y-dược cũng vô tình tạo nên một “văn hóa kí sinh”, tức là phụ thuộc một cách bệnh hoạn vào thuốc men, và ít ai trong chúng ta nhận lãnh trách nhiệm duy trì sức khỏe của chính cho chính mình.  Thay vào đó, chúng ta trao nhiệm vụ này cho giới y tế, những người biết rất ít về duy trì sức khỏe, hay phòng ngừa bệnh tật.  Giới y tế, kể cả bác sĩ và y tá, được dạy cách quản lí bệnh tật, hay quản lí triệu chứng căn bệnh.  Cũng giống như người thợ sửa xe người không biết gì ngoài việc bảo quản chiếc xe, bởi vì họ chỉ được huấn luyện cách thức sửa xe.

Chúng ta có nhiều thuốc làm giảm đau, và nhiều cách kiềm chế triệu chứng căn bệnh, nhưng chúng ta chẳng có phương pháp chữa bệnh.  Có thể nói không ngoa rằng khi kĩ nghệ dược được sáng lập dựa vào ý tưởng “viên đạn huyền diệu”, kĩ nghệ này đã có một định hướng sai lầm.  Louis Pasteur là một người trí thức đúng nghĩa.  Lúc cuối đời, ông nhận ra rằng “le terrain” (hệ thống sinh lí nội tiết) là yếu tố quan trọng nhất trong việc duy trì sức khỏe.  Nhưng tiếc thay, ngày nay, le terrain càng ngày càng tồi tệ hơn, vì tình trạng suy dinh dưỡng dạng B.

Bằng chứng 

Một vấn đề lớn cho những người cổ vũ cho lí thuyết suy dinh dưỡng dạng B là vấn đề thiếu thốn bằng chứng khoa học.  Chúng ta có một kho tàng dữ kiện dịch tễ học cho thấy mối liên hệ giữa dinh dưỡng và nguy cơ bệnh tật, và một kho tàng kiến thức về cơ chế bệnh tật, về mối liên đới giữa thức ăn và hóa chất.  Nhưng hầu hết các nghiên cứu với các chất vi dinh dưỡng, ngoại trừ chất béo omega-3, đều cho ra những kết quả thiếu nhất quán.  Nói cách khác, khoa học mà chúng ta thực hành không có giá trị tiên đoán.  Nhưng sự thật này có làm cho khoa học mất hiệu lực không?  Hay là chúng ta đặt những câu hỏi sai?

Dựa vào cách suy nghĩ của kĩ nghệ dược, phần lớn các nghiên cứu lâm sàng cố tìm cách đo lường tác dụng của một chất vi dinh dưỡng và mối tương quan giữa nó với một căn bệnh.  Điều này cũng hợp lí, vì theo cách nghĩ cổ điển, nếu chúng ta thử nghiệm một hợp chất (gồm nhiều chất dinh dưỡng) thì chúng ta sẽ không biết chất nào cho ra tác dụng tích cực và chất nào cho ra tác dụng tiêu cực.  Do đó, chúng ta phải thử nghiệm từng chất một.  Nhưng trong lĩnh vực dinh dưỡng, cách thức này sẽ không có hiệu quả.  Nó cũng giống như người thợ máy khi đối đầu trước một chiếc xe không được bảo trì thường xuyến, và đòi hỏi phải lái thử trước khi thay cái lược nhớt; người thợ khác thì đòi phải thay cái bu-gi, vân vân.  

Mỗi can thiệp tự nó ít khi nào đầy đủ để gây ra một sự khác biệt.  Để làm cho chiếc xe vận hành tốt hơn, và bền bỉ hơn cần phải có một dịch vụ toàn bộ.  Tương tự, yếu tố cần thiết để chúng có thể sống lâu hơn và khỏe mạnh hơn là một sự bổ sung dinh dưỡng toàn diện, chứ không chỉ riêng một chất dinh dưỡng nào.  Chẳng hạn như đối với bệnh tim mạch, rõ ràng là không có một mối liên hệ cá biệt nào.  Chế độ ăn uống và cách sống của thế giới Tây phương là mầm móng gây ra nhiều hỗn loạn hóa học của cơ thể và làm cho con người bị nhiều bệnh, kể cả bệnh tim mạch.  Cách đối phó hay nhất trước tình trạng này, do đó, phải kết hợp nhiều nguồn vi dinh dưỡng để bình thướng hóa địa hình hóa học của cơ thể.

Thành ra, chúng ta phải phân tích tình trạng dinh dưỡng cho mỗi cá nhân và từ đó phát triển một “công thức dinh dưỡng” cho cá nhân đó?  Cố nhiên, không ai giống ai về lối sống, hay cách ăn uống.  Ông A có thể thiếu sinh tố E, và dầu omega 3, nhưng ông B có thể thiếu sinh tố C, B12, đồng và selenium, v.v…

 Trong khi chúng ta không có nguồn tài lực để phân tích và phát triển công thức cho hàng triệu cá nhân, nhưng thực ra chúng ta cũng không cần làm như thế.  Phần đông quần chúng hiện nay đang thiếu một số chất dinh dưỡng, và phần lớn chất dinh dưỡng này rất an toàn.  Do đó, một chương trình phổ thông khuyến khích quần chúng tiếp nhận những chất dinh dưỡng đang thiếu này là một chiến lược có hiệu quả kinh tế cao và có thể đem lại sức khỏe cho người dân.

 


200 năm Darwin
Agent Orange: collateral damage
Alexandre Yersin và Việt Nam
Bàn về hiệu quả vắcxin: lâm sàng và kinh tế
Bàn về vấn đề dịch thuật và đánh giá năng suất khoa học
Béo phì ở người Á châu
Béo phì ở trẻ em và virus
Bình luận từ Dr. Yến
Bưởi không gây ung thư vú
Bảo hiểm y tế cộng đồng
Bảo tồn môi sinh: Chiến tranh giữa hai thế giới
Bằng chứng khoa học thay vì lên lớp
Bệnh tả: không để Việt Nam thành Bangladesh thứ hai
Bệnh tật nhìn từ quan điểm của thuyết tiến hóa
Bệnh xơ hóa cơ delta qua y văn thế giới
Bổ sung kẽm và điều trị bệnh tả
Bộ gen trong cây lúa và triển vọng
Bộ Y tế phản ứng chậm với rét đậm
Chiều cao của người Việt
Chiều cao và tổng thống Mĩ
Cholesterol và bệnh Tim
Cholesterol: hung thần hay bạn?
Chuột và... các nhà khoa học
Chính sách y tế cần dựa vào bằng chứng khoa học
Chạy đua vũ khí và … dịch cúm
Chất béo, cholesterol, bệnh tim và statins: xét lại bằng chứng
Chất keo xã hội: hormones
Chất lượng nghiên cứu dịch tễ học và y tế cộng đồng của Việt Nam qua chỉ số H
Chất lượng nghiên cứu khoa học ở Việt Nam qua chỉ số trích dẫn
Chất vấn chuẩn chẩn đoán béo phì
Chế độ ăn uống với nhiều thịt động vật và nguy cơ tử vong
Chủng vi khuẩn tả hiện nay ở nước ta có phải mới xuất hiện?
Cuộc chiến hóa học phi pháp lớn nhất trong lịch sử chiến tranh
Câu chuyện y học: Leptin và béo phì
Có bao nhiêu bác sĩ viết chữ khó đọc
Có nên tập trung vào vi khuẩn E. coli ?
Có thể xảy ra đại dịch cúm gia cầm?
Công cụ đơn giản để chẩn đoán tiểu đường ở người Đông Nam Á
Cúm gia cầm và nhiễu thông tin
Cúm H1N1: biết và chưa biết
Cơ hội để khép lại một chương lịch sử đau lòng
Cần hiểu đúng về Ung thư và nguy cơ ung thư
Cần qui ước đạo đức cho kĩ nghệ thực phẩm
Cần tiêm chủng ngừa bệnh tả vùng có nguy cơ cao
Cần điều tra về chất lượng bệnh viện
Cổ phần hóa bệnh viện công và chất lượng
Cổ phần hóa: chưa phải cách duy nhất
DDT và vấn đề cân đối giữa lợi ích và nguy hiểm
Dinh dưỡng: một nguồn thuốc quí giá
DNA không nói dối, nhưng DNA có thể nói … sai
Dịch cúm gà: hoang mang và sự thật khoa học
Dịch cúm heo và tác hại kinh tế
Dịch tay-chân-miệng
Dịch tả: gọi đúng tên để phòng ngừa
Dựa vào khoa học, đừng dựa vào niềm tin!
E. coli – vài câu hỏi thông thường
Gen và bệnh tật
Ghen tuông dưới cái nhìn của tâm lí y khoa
Gian lận trong nghiên cứu khoa học: áp lực kinh tế và cơ chế bình duyệt
GIÁO DỤC ĐẠI HỌC: KHƠI DẬY VÀ NUÔI DƯỠNG TÍNH HAM HỌC
Giải nobel y học hay sinh lí học 2007 và lợi ích cho người bệnh
Giải Nobel Y sinh học 2008 và những tranh chấp khoa học
Giải Nobel y sinh học 2010 vinh danh người đem niềm vui cho người vô sinh
Giải Nobel y sinh học năm 2005: Một cõi đi về với vi khuẩn
Giải Nobel y sinh học: Nhìn lại quãng đường 100 năm
Giải phẫu ghép mặt và vấn đề y đức
Gout ở xương sống
Gãy xương và tử vong: một vấn nạn y tế cộng đồng
Hiệu quả vắcxin có nghĩa gì?
Hoa vàng mấy độc
Hàm lượng đạm trong sữa “siêu thấp” hay “siêu cao”?
Hóa chất khai hoang trong cuộc chiến Viện Nam: Qui mô và tầm ảnh hưởng
Hướng đi nào để giải quyết vấn đề chất độc da cam ở Việt Nam
Hậu “mắm tôm được minh oan”: bằng chứng khoa học, nhà xí và nghiên cứu
Hệ Thống Học Vị Và Học Hàm Khoa Học Ở Vài Nước Tây Phương
Hợp tác khoa học kiểu nhảy dù - Nguyễn Văn Tuấn
Khi bác sĩ trẻ “khoe” quá nhiều
Khoa học và ngụy khoa học: một vài đặc điểm và khác biệt cần biết
Khoa học, xã hội, và rủi ro
Không thể thành Phù Đổng trong 20 năm!
Khẩu trang và phòng chống cúm A/H1N1
Kiểm định giả thuyết mắm tôm và vi khuẩn tả
Liều lượng melamine bao nhiêu là an toàn?
Lí lịch sinh học của heo và dấu vết văn minh nông nghiệp Đông Nam Á
Lượng giá mạng sống con người
Lợi ích của vitamin D
Miệng nhà quan
Mắm tôm có phải là “thủ phạm” gây bệnh tả? Xét lại bằng chứng khoa học
Mắm tôm và chuyện xin lỗi
Mắm tôm và dịch tả: phân biệt yếu tố nguy cơ và nguyên nhân
Mắm tôm vô tội!
Mắm tôm, nguyên nhân và hệ quả
Mối quan hệ giữa giới y khoa và kĩ nghệ dược
Mối quan hệ giữa giới y khoa và kĩ nghệ dược
Một bệnh hiếm X-linked recessive hypoparathyroidism
Một lần đi phỏng vấn
Một năm nhìn lại
Một phán quyết thiếu cơ sở khoa học
Một vài hiểu lầm tai hại
Một vài ngộ nhận về nghiên cứu khoa học
Một vài vấn đề về qui định chức danh giáo sư ở Việt Nam
Một vụ Madoff trong y khoa: Lại một ngôi sao y khoa rơi rụng!
Mỡ trắng, mỡ nâu
Mỡ  trong máu, huyết áp, và  tiểu đường
Nghiên cứu y học ở Việt Nam: Đặc điểm, thiếu sót, và sai sót
Nghiên cứu y học ở Việt Nam: Đặc điểm, thiếu sót, và sai sót
Nguyên nhân bệnh tiêu chảy
Ngó trên tay điếu thuốc đã lụi dần
Người cao tuổi và sự hạn chế của y khoa
Người ăn chay có mật độ xương như người ăn mặn
Người ăn chay có mật độ xương như người ăn mặn
Nhân chuyện dịch tả nhớ lại John Snow
Nhân câu chuyện điện não đồ xét nghiệm nghiện ma túy:
Nhân năm khỉ_nguồn gốc con người hiện đại
Nhân năm Tý bàn chuyện thí nghiệm trên chuột
Nhìn lại khoa học Việt Nam năm 2008 qua công bố quốc tế
Nhầm lẫn trong y khoa: Khá phổ biến, nhưng ít ai biết!
Những câu hỏi và trả lời về dịch gia cầm
Những sai sót khó tin nhưng có thật
Những sai sót nguy hiểm trong toa thuốc
Những điều khó tin về “Bảy điều khó tin nhất trong y học”
Năm lí do cho mắm tôm “vô tội”
Phán quyết sau cùng: Chất béo không ảnh hưởng đến ung thư và bệnh tim
Phát hiện gien kiểm soát ráy tai: vài bài học về mò kim đáy biển
Phòng chống bệnh phải dựa vào bằng chứng khoa học!
Phòng chống H1N1 bằng rửa tay và khẩu trang: Biện pháp nào hiệu quả hơn?
Qui định cấp giấy phép lái xe dựa vào chiều cao và cân nặng: thiếu cơ sở khoa học và kì thị giới tính
Qui định cấp giấy phép lái xe dựa vào chiều cao: vấn đề giả định và bằng chứng khoa học
Quyền phê phán và trí thức
Quyền được tiếp cận hồ sơ bệnh án
Quản lý chất lượng: Thuốc phòng "tai nạn y khoa"
Rửa tay bằng xà phòng và tiêu chảy
Serotonin có liên quan đến chứng đột tử
Suy dinh dưỡng ở trẻ em: vấn đề của kinh tế
Sàng lọc trẻ sơ sinh trên phạm vi toàn quốc
Tai nạn y khoa trong bệnh viện
Thế nào là một "bài báo khoa học"
Thế nào là “Cơ sở khoa học” ?
Thịt chó là nguyên nhân của bệnh tiêu chảy cấp tính?
Thịt chó và bệnh tả: nguyên nhân và yếu tố nguy cơ
Tiên lượng bệnh Alzheimer bằng protein expression ?
Tiêu chuẩn chất lượng giáo dục đại học
Tiêu chuẩn chẩn đoán béo phì cho người Việt - Nguyễn Văn Tuấn
Tiêu chuẩn chẩn đoán bệnh đái tháo đường (diabetes mellitus)
Tiêu chuẩn đề bạt giáo sư: Có nên căn cứ vào số lượng bài báo ?
Tiêu chảy cấp tính và bệnh tả: Định danh cho đúng
Truy tìm ung thư bằng mammography từ tuổi 50
Truyền thông và khoa học: Qui ước Ingelfinger
Truyền thông và y tế
Truyền thông, khoa học và … doanh nghiệp
Trà xanh và sức khỏe
Trách nhiệm và nhân đạo trong vấn đề chất độc da cam
Trái chanh và phòng chống bệnh tả
Trả lời những câu hỏi liên quan đến loãng xương
Trọng lượng cơ thể và tử vong ở người Trung Quốc: Ý nghĩa về việc xác định tiêu chuẩn chẩn đoán béo phì
Tuổi thọ của người dân giảm 10 năm ?
Tác dụng Placebo trong y học: Tâm lí và ý nghĩa
Tình yêu, sắc đẹp nhìn dưới quan điểm di truyền học
Tín hiệu môi trường từ những “làng ung thư”
Tính khoa học và minh bạch đằng sau xét nghiệm doping
Tại sao không phát biểu về nguyên nhân và hệ quả ?
Tại sao uống rượu gây đỏ mặt và nguy cơ ung thư thực quản
Tạo sinh vô tính và cái chết của Thượng đế
Tạo sinh vô tính và vấn đề sinh đạo đức
Tản mạn về SARS
Tỉ lệ tử vong do cúm heo là bao nhiêu ?
Tự trị, chất lượng và y đức thay vì cổ phần hóa bệnh viện công
Ung thư vú và vấn đề thông tin y khoa
Uống bia hấp dẫn muỗi
Vaccine phòng chống AIDS hiệu quả đến đâu ?
Vaccine phòng chống cúm A/H1N1
Vi khuẩn gây tiêu chảy và ý nghĩa tiêm chủng
Vi khuẩn tả trong chó ?
Viết văn có thể chữa nhiều loại bệnh
Viết văn và trị liệu
Việc ta, ta cứ làm!
Vài nhận xét về 12 điều lệ y đức của Việt Nam
Vài thông tin cần biết về các chương trình truy tìm ung thư vú
Vài đóng góp quan trọng của người Việt khoa học thống kê
Văn hóa khoa học
Văn hóa tranh luận và vấn đề ngụy biện
Vấn đề sinh tố: kẽm và đồng
Vấn đề truy tìm ung thư phổi và hiệu quả 
Vấn đề y đức trong nghiên cứu tế bào mầm (stem cells)
Vấn đề đo lường melamine
Vấn đề đào tạo tiến sĩ: kinh nghiệm từ Australia
Vắc-xin phòng chống ung thư cổ tử cung
Vắcxin ngừa viêm gan B: cẩn thận với “nhiễu thông tin”
Vắcxin ngừa viêm gan B: kinh nghiệm từ nước ngoài
Vắcxin phòng bệnh sởi - quai bị - Rubella: lợi và hại
Vắcxin phòng chống ung thư cổ tử cung: hiệu quả lâm sàng và kinh tế
Vắcxin phòng ngừa bệnh tả: rất cần thiết
Về chấn chỉnh đào tạo tiến sĩ: Công bố bài báo khoa học là một thách thức lớn ?
Về học vị tiến sĩ
Về một sự hiểu lầm thuật ngữ "prospective"
Về phản ứng phụ của bisphosphonates liên quan đến hoại tử xương hàm và rung nhĩ
Vệ sinh như là một loại hàng hóa
Vị thế của nền khoa học Việt Nam
Xung quang xì căng đan về nghiên cứu tế bào mầm
Xã hội hóa và an toàn thực phẩm
Xếp hạng đại học: cần minh bạch hóa phương pháp
Y học hiện đại và những hứa hẹn
Y học thực chứng: vài nét khái quát
Y Khoa và những nhầm lẫn chết người
Y tế dự phòng: nền tảng của y khoa hiện đại
Y đức và nghiên cứu y học
Ói mửa, cao huyết áp và hôn mê
Ăn chay như là một trị liệu
Ăn chay và loãng xương
Điều trị bệnh dựa vào màu da ?
Điều trị đau dây thần kinh tọa bằng phẫu thuật: không có hiệu quả
Đo lường hiệu suất khoa học
Đánh giá đúng tầm quan trọng của ung thư vú 
Đại dịch H1N1
Đại dịch và đại dịch ảo
Đại dịch đã đến ?
Đạo văn trong hoạt động khoa học
Đậu nành và sức khỏe: đâu là thực và đâu là giả
Đậu nành và sức khỏe: đâu là thực và đâu là giả
Đằng sau những con số hàm lượng đạm trong sữa
Đế quốc Trà
Đề bạt các chức danh khoa bảng: vài kinh nghiệm từ Úc
Đọc lại 12 điều y đức của Việt Nam
Đồi điều về sữa nhiễm melamine
Đừng quên melamine trong các thực phẩm khác!
Ước vọng 200 ?
“Kỹ năng mềm” cho nhà khoa học
“Sẽ” và “có thể”


Trang nhiều tác giả
Trang riêng của Lê Ngọc Dũng
Trang riêng của Lương Lễ Hoàng
Trang riêng của Nguyễn Bảo Trung
Trang riêng của Nguyễn Hoài Nam
Trang riêng của Nguyễn Hữu Đức
Trang riêng của Nguyễn Văn Tuấn
Trang riêng của Nguyễn Ý Đức
Trang riêng của Nguyễn Đình Nguyên
Trang riêng của Phan Xuân Trung
Trang riêng của Đỗ Hồng Ngọc
Trang riêng của Đỗ Minh Tuấn