NGUYỄN VĂN TUẤN

Giải phẫu ghép mặt và vấn đề y đức

Nguyễn Văn Tuấn

Trong các bộ môn y học hiện đại, phẫu thuật ghép cơ phận (organ transplantation) từng cứu sống rất nhiều bệnh nhân, nhưng cũng là thuật chữa trị gây ra nhiều vấn đề y đức nhất. Tính từ năm 1954 khi ca giải phẫu ghép thận cho một cặp sinh đôi lần đầu tiên được tiến hành thành công tại Bệnh viện đa khoa Boston cho đến nay, phẫu thuật ghép cơ phận đã tròn 50 tuổi. Trong thời gian ngắn ngủi đó, phẫu thuật ghép đã phát triển nhanh chóng, nhanh đến nỗi có khi ngoài sự tưởng tượng của con người. Ngày nay, giải phẫu ghép thận, tim, lá lách, gan, ruột, phổi, v.v… là những việc thường ngày tại các bệnh viện lớn, không còn là những bản tin trên nhật báo nữa.

Nhưng tuần vừa qua, phẫu thuật ghép bước thêm một bước tiến quan trọng khác: ghép mặt. Quyết định của Bác sĩ Jean-Michel Dubernard ghép mặt cho một phụ nữ 38 tuổi bị chó hành hung làm cho mặt bị biến dạng (mất cả môi và mũi) đã châm ngòi cho một cuộc tranh luận sôi nổi về y đức. Bác sĩ lấy mũi, cằm, và một phần miệng từ một bệnh nhân đã chết não rồi cấy ghép vào mặt của bệnh nhân. Danh tính của bệnh nhân, vì lí do y đức, cho đến nay vẫn chưa được tiết lộ.

Thật ra, Bác sĩ Dubernard (64 tuổi) đã từng là một phẫu thuật gia tiên phong trong phẫu thuật ghép tuyến tụy (1). Ông cũng là người đứng đầu một nhóm bác sĩ tiến hành thành công phẫu thuật ghép cánh tay vào năm 1998 (2). (Phẫu thuật ghép tay được tiến hành lần đầu tiên ở Ecuador vào năm 1964 trước khi thuốc miễn nhiễm được sản xuất và trước cả kĩ thuật vi phẫu thuật ra đời.) Ông từng giữ chức cựu phó thị trưởng thành phố Lyon và là một trong những dân biểu quan trọng trong Quốc hội Pháp. Do đó, Dubernard không phải xa lạ gì với những ồn ào chung quanh vấn đề y đức.

Phẫu ghép mặt được giới chuyên môn đánh giá là cực kì nguy hiểm, và không ai có thể đoán trước được diện mạo của bệnh nhân sẽ ra sao sau khi giải phẫu. Nhiều bác sĩ giải phẫu cho rằng quyết định của Bác sĩ Dubernard đã vi phạm y đức và luật pháp. Một số khác thì đặt vấn đề về tình trạng ổn định tâm lí của bệnh nhân. Tuy nhiên, Bác sĩ Dubernard cho biết ông và đồng nghiệp trong ê kíp giải phẫu đã tuân hành theo các điều lệ về y đức và luật pháp của Pháp, và bệnh nhân đã được các bác sĩ tâm thần thẩm định về tâm lí rất ổn định trước khi giải phẫu.

Một cuộc tranh luận về y đức “bùng nổ” trên các tập san y học mà có lẽ không mấy người ngoài y học biết được. Nhà giải phẫu thì quan tâm đến kĩ thuật, đến câu hỏi “giải phẫu bằng cách nào”, nhưng có lẽ một câu hỏi quan trọng khác cần đặt ra là “có nên giải phẫu hay không”? Vấn đề đặt ra là trong trường hợp nào phẫu thuật thay ghép mặt được xem là không vi phạm y đức và đem lại lợi ích cho bệnh nhân. Để đánh giá giải phẫu ghép mặt có vi phạm y đức hay không, các nhà nghiên cứu y đức đề nghị 3 tiêu chí: tôn trọng bệnh nhân, phúc lợi, và công tâm.

Tôn trọng bệnh nhân có nghĩa là tôn trọng quyền lựa chọn của bệnh nhân được chữa trị trong sự tương kính giữa bác sĩ và bệnh nhân. Đối với một bệnh nhân mặt bị biến dạng nghiêm trọng, phải sống đằng sau “mặt nạ” xấu xí hay thậm chí ngại không dám giao tiếp với bạn bè, thì việc giải phẫu đem lại cho họ một bộ mặt mới có thể giúp cho họ trở thành một thành viên tích cực hơn trong xã hội. Giải phẫu ghép mặt trong các trường hợp này có ý nghĩa trả lại họ cái nhân dạng và duy trì chất lượng đời sống.

Những người phản đối thì lí giải rằng phẫu thuật này không phải là phẫu thuật để cứu bệnh nhân, nguy cơ bị thải ghép (tức là cơ thể sinh lí bệnh nhân không chấp nhận bộ mặt mới), và phản ứng của thuốc immunosuppresant (thuốc miễn dịch mà bệnh nhân phải dùng suốt đời) có thể làm cho chất lượng đời sống của bệnh nhân xấu đi. Cần phải nhấn mạnh và phân biệt rằng ghép mặt là một phẫu thuật còn trong thời kì thử nghiệm, chứ không phải phẫu thuật hoàn chỉnh có thể tiến hành hàng ngày.

Một số bác sĩ khác phản đối phẫu thuật ghép mặt vì họ cho rằng phẫu thuật này không cần thiết, và chỉ ra rằng có một lựa chọn khác: đó là giải phẫu thẩm mĩ thông thường và dùng da của chính bệnh nhân (còn gọi là “lateral arm flap procedure”). Nhưng các nhà giải phẫu đề xướng phẫu thuật ghép mặt thì cho rằng phẫu thuật lateral arm flap rất khó thành công và có khi thiếu thực tế, vì nó yêu cầu bệnh nhân phải cử động như nói, cười, nhăn mặt, v.v… để phẫu thuật gia có thể tái xây dựng khuôn mặt.

Tiêu chí thứ hai để đánh giá y đức của phẫu thuật ghép mặt là phúc lợi, có nghĩa là phẫu thuật gia có nghĩa vụ phải bảo đảm bệnh nhân sẽ hưởng lợi ích từ phẫu thuật, và nhất là không làm tổn hại đến bệnh nhân. Với tiêu chí này những người như bác sĩ Dubernard lí giải rằng phẫu thuật ghép mặt đem lại một cuộc sống mới tốt hơn cho bệnh nhân, và đó chẳng phải là một lợi ích lớn nhất ư. Nhưng còn hại ? Bệnh nhân phải dùng thuốc miễn dịch suốt đời với những ảnh hưởng phụ, và biến chứng từ cuộc giải phẫu là một mối quan tâm lớn. Ngay cả với những người tích cực nhất với phẫu thuật ghép cũng phải công nhận đây là những cái “hại” mà bệnh nhân có thể phải kinh qua. Nhưng trên đời này làm gì có một phẫu thuật hoàn hảo, và có ai dám bảo đảm dứt khoát về lợi ích của một thuật chữa trị. Bệnh nhân phải chấp nhận một vài rủi ro không thể đoán trước được.

Những người phản đối lí giải rằng phẫu thuật ghép mặt có thể đem lại một con người mới cho bệnh nhân, nhưng có thể gây tổn hại đến tâm lí của bệnh nhân. Phẫu thuật ghép mặt không thể so sánh với các phẫu thuật thông thường khác, bởi vì bệnh nhân “tiếp nhận” một nhân dạng của người khác, và phải mất đi cái nhân dạng của chính mình. Khuôn mặt là một phần làm nên cái căn cước tính của một cá nhân, đánh mất cái căn cước đó là một vấn đề không thể xem thường được. Những ảnh hưởng đến tâm lí và tinh thần nảy sinh trong quá trình thích ứng với khuôn mặt mới của bệnh nhân khó mà đoán trước được. Đối với nhiều nhà đạo đức học, sống trong tâm lí dằn dặt với cái căn cước tính mới là một sự tra tấn!

Bệnh nhân chắc chắn phải dùng thuốc miễn dịch suốt đời. Ngay cả đối những thuốc miễn dịch mới nhất, ảnh hưởng phụ và biến chứng từ thuốc là một điều không thể tránh khỏi. Những ảnh hưởng phụ này có thể làm giảm tuổi thọ của bệnh nhân, và như thế là có khả năng gây tác hại.

Sau cùng là vấn đề công tâm. Khái niệm “công tâm” ở đây đề cập đến khả năng mà bệnh nhân đi đến quyết định không bị chi phối bằng những áp lực từ bác sĩ hay bất cứ ai. Vấn đề đặt ra trong các bệnh nhân mặt bị biến dạng nghiêm trọng là họ đang trong một tình trạng tuyệt vọng, khủng hoảng tinh thần, và rất dễ bị thuyết phục. Nói cách khác, họ sẵn sàng thử bất cứ phẫu thuật nào mà không cần xem đến độ nguy hiểm. Do đó, việc tuyển chọn những bệnh nhân như thế vào các ca mỗ ghép mặt có thể xem là một hình thức “bóc lột tinh thần”, một hình thức lạm dụng và khai thác sự yếu đuối của bệnh nhân, và thế là vi phạm y đức.

Ở đây, không ai nghi ngờ kĩ năng chuyên môn của các nhà phẫu thuật để tiến hành những ca mổ này. Tuy nhiên, trên thế giới hiện nay có đến 5 nhóm phẫu thuật gia có khả năng và kĩ thuật để ghép mặt, và họ cạnh tranh với nhau để được lưu tiếng là “nhóm đầu tiên trên thế giới” tiến hành phẫu thuật. Trong sự cạnh tranh như thế, họ có thể hi sinh y đức và lờ đi các vấn đề đạo đức để lưu danh cùng y sử.

Xem xét những tiêu chí và lí giải trên, chúng ta thấy vấn đề y đức trong việc cấy ghép mặt không đơn giản chút nào. Có lẽ bệnh nhân phải là người quyết định cuối cùng, sau khi đã có được thông tin về lợi và hại của phẫu thuật. Trong trường hợp này, bệnh nhân đã quyết định cho chính mình khi bà phát biểu sau ca giải phẫu rằng: “Tôi chỉ muốn có một cuộc sống bình thường, không muốn làm đối tượng cho người ta chăm chú nhìn vào. Bây giờ thì vẫn còn quá sớm để nói về tương lai. Nhưng tôi không hối hận gì cả - nếu tôi được dịp lựa chọn một lần nữa, tôi sẽ chọn giải pháp phẫu thuật một lần nữa.”

Chú thích:

(1) Vài hàng về Bác sĩ Dubernard: ông sinh trong một gia đình có truyền thống y khoa, với bố là một bác sĩ đa khoa và mẹ là dược sĩ. Ông còn có biệt danh là “Max” vì thời còn đi học ông lúc nào cũng cố gắng hết mình để đạt cho được kết quả ông muốn. Ông là một người nghiện thuốc lá loại nặng. Tuy cố gắng bỏ hút thuốc hai ba lần nhưng không thành công. Trong một bài trả lời phỏng vấn, ông cho biết đã từng có ý định trở thành một phẫu thuật gia lúc mới 11 tuổi khi khinh qua đau đớn trong lần mổ cắt ruột thừa. Bác sĩ Dubernard học y ở Pháp, tu nghiệp và nghiên cứu y khoa ở Bỉ và Mĩ (Đại học Harvard). Ngoài y khoa, ông còn là một chính khách với vai trò dân biểu trong Quốc hội Pháp từ năm 1986.

(2) Năm 1998, Bác sĩ Dubernard giải phẫu ghép cánh tay cho ông Clint Hallam, và sự việc cũng gây ra vài tranh cãi, vì Hallam có tiền sử là một tội phạm và bị mất cánh tay khi còn trong tù. Sau khi giải phẫu, ông Hallam chẳng những không chịu sử dụng thuốc miễn dịch và không chịu tập thể dục, mà còn yêu cầu chặt bỏ cánh tay mới vào năm 2001! Vụ này làm cho bác sĩ Dubernard mất mặt một thời.

Hình minh họa 1: Bệnh nhân nữ được ghép mặt ở Pháp vào ngày 27/11/2005 vừa qua. Môi và mũi bị chó cắn làm cho biến dạng. Nguồn gốc hình: New York Times

Hình minh họa 2: Bác sĩ cắt phần miệng, mũi và cằm của bệnh nhân hiến mình (hình phía trái) và cấy vào bệnh nhân cần (hình phía phải). Tĩnh mạch và động mạch được bác sĩ nối lại dùng kĩ thuật vi phẫu thuật (microsurgery). Nguồn gốc hình: BBC http://news.bbc.co.uk/1/hi/health/4491310.stm


200 năm Darwin
Agent Orange: collateral damage
Alexandre Yersin và Việt Nam
Bàn về hiệu quả vắcxin: lâm sàng và kinh tế
Bàn về vấn đề dịch thuật và đánh giá năng suất khoa học
Béo phì ở người Á châu
Béo phì ở trẻ em và virus
Bình luận từ Dr. Yến
Bưởi không gây ung thư vú
Bảo hiểm y tế cộng đồng
Bảo tồn môi sinh: Chiến tranh giữa hai thế giới
Bằng chứng khoa học thay vì lên lớp
Bệnh tả: không để Việt Nam thành Bangladesh thứ hai
Bệnh tật nhìn từ quan điểm của thuyết tiến hóa
Bệnh xơ hóa cơ delta qua y văn thế giới
Bổ sung kẽm và điều trị bệnh tả
Bộ gen trong cây lúa và triển vọng
Bộ Y tế phản ứng chậm với rét đậm
Chiều cao của người Việt
Chiều cao và tổng thống Mĩ
Cholesterol và bệnh Tim
Cholesterol: hung thần hay bạn?
Chuột và... các nhà khoa học
Chính sách y tế cần dựa vào bằng chứng khoa học
Chạy đua vũ khí và … dịch cúm
Chất béo, cholesterol, bệnh tim và statins: xét lại bằng chứng
Chất keo xã hội: hormones
Chất lượng nghiên cứu dịch tễ học và y tế cộng đồng của Việt Nam qua chỉ số H
Chất lượng nghiên cứu khoa học ở Việt Nam qua chỉ số trích dẫn
Chất vấn chuẩn chẩn đoán béo phì
Chế độ ăn uống với nhiều thịt động vật và nguy cơ tử vong
Chủng vi khuẩn tả hiện nay ở nước ta có phải mới xuất hiện?
Cuộc chiến hóa học phi pháp lớn nhất trong lịch sử chiến tranh
Câu chuyện y học: Leptin và béo phì
Có bao nhiêu bác sĩ viết chữ khó đọc
Có nên tập trung vào vi khuẩn E. coli ?
Có thể xảy ra đại dịch cúm gia cầm?
Công cụ đơn giản để chẩn đoán tiểu đường ở người Đông Nam Á
Cúm gia cầm và nhiễu thông tin
Cúm H1N1: biết và chưa biết
Cơ hội để khép lại một chương lịch sử đau lòng
Cần hiểu đúng về Ung thư và nguy cơ ung thư
Cần qui ước đạo đức cho kĩ nghệ thực phẩm
Cần tiêm chủng ngừa bệnh tả vùng có nguy cơ cao
Cần điều tra về chất lượng bệnh viện
Cổ phần hóa bệnh viện công và chất lượng
Cổ phần hóa: chưa phải cách duy nhất
DDT và vấn đề cân đối giữa lợi ích và nguy hiểm
Dinh dưỡng: một nguồn thuốc quí giá
DNA không nói dối, nhưng DNA có thể nói … sai
Dịch cúm gà: hoang mang và sự thật khoa học
Dịch cúm heo và tác hại kinh tế
Dịch tay-chân-miệng
Dịch tả: gọi đúng tên để phòng ngừa
Dựa vào khoa học, đừng dựa vào niềm tin!
E. coli – vài câu hỏi thông thường
Gen và bệnh tật
Ghen tuông dưới cái nhìn của tâm lí y khoa
Gian lận trong nghiên cứu khoa học: áp lực kinh tế và cơ chế bình duyệt
GIÁO DỤC ĐẠI HỌC: KHƠI DẬY VÀ NUÔI DƯỠNG TÍNH HAM HỌC
Giải nobel y học hay sinh lí học 2007 và lợi ích cho người bệnh
Giải Nobel Y sinh học 2008 và những tranh chấp khoa học
Giải Nobel y sinh học 2010 vinh danh người đem niềm vui cho người vô sinh
Giải Nobel y sinh học năm 2005: Một cõi đi về với vi khuẩn
Giải Nobel y sinh học: Nhìn lại quãng đường 100 năm
Giải phẫu ghép mặt và vấn đề y đức
Gout ở xương sống
Gãy xương và tử vong: một vấn nạn y tế cộng đồng
Hiệu quả vắcxin có nghĩa gì?
Hoa vàng mấy độc
Hàm lượng đạm trong sữa “siêu thấp” hay “siêu cao”?
Hóa chất khai hoang trong cuộc chiến Viện Nam: Qui mô và tầm ảnh hưởng
Hướng đi nào để giải quyết vấn đề chất độc da cam ở Việt Nam
Hậu “mắm tôm được minh oan”: bằng chứng khoa học, nhà xí và nghiên cứu
Hệ Thống Học Vị Và Học Hàm Khoa Học Ở Vài Nước Tây Phương
Hợp tác khoa học kiểu nhảy dù - Nguyễn Văn Tuấn
Khi bác sĩ trẻ “khoe” quá nhiều
Khoa học và ngụy khoa học: một vài đặc điểm và khác biệt cần biết
Khoa học, xã hội, và rủi ro
Không thể thành Phù Đổng trong 20 năm!
Khẩu trang và phòng chống cúm A/H1N1
Kiểm định giả thuyết mắm tôm và vi khuẩn tả
Liều lượng melamine bao nhiêu là an toàn?
Lí lịch sinh học của heo và dấu vết văn minh nông nghiệp Đông Nam Á
Lượng giá mạng sống con người
Lợi ích của vitamin D
Miệng nhà quan
Mắm tôm có phải là “thủ phạm” gây bệnh tả? Xét lại bằng chứng khoa học
Mắm tôm và chuyện xin lỗi
Mắm tôm và dịch tả: phân biệt yếu tố nguy cơ và nguyên nhân
Mắm tôm vô tội!
Mắm tôm, nguyên nhân và hệ quả
Mối quan hệ giữa giới y khoa và kĩ nghệ dược
Mối quan hệ giữa giới y khoa và kĩ nghệ dược
Một bệnh hiếm X-linked recessive hypoparathyroidism
Một lần đi phỏng vấn
Một năm nhìn lại
Một phán quyết thiếu cơ sở khoa học
Một vài hiểu lầm tai hại
Một vài ngộ nhận về nghiên cứu khoa học
Một vài vấn đề về qui định chức danh giáo sư ở Việt Nam
Một vụ Madoff trong y khoa: Lại một ngôi sao y khoa rơi rụng!
Mỡ trắng, mỡ nâu
Mỡ  trong máu, huyết áp, và  tiểu đường
Nghiên cứu y học ở Việt Nam: Đặc điểm, thiếu sót, và sai sót
Nghiên cứu y học ở Việt Nam: Đặc điểm, thiếu sót, và sai sót
Nguyên nhân bệnh tiêu chảy
Ngó trên tay điếu thuốc đã lụi dần
Người cao tuổi và sự hạn chế của y khoa
Người ăn chay có mật độ xương như người ăn mặn
Người ăn chay có mật độ xương như người ăn mặn
Nhân chuyện dịch tả nhớ lại John Snow
Nhân câu chuyện điện não đồ xét nghiệm nghiện ma túy:
Nhân năm khỉ_nguồn gốc con người hiện đại
Nhân năm Tý bàn chuyện thí nghiệm trên chuột
Nhìn lại khoa học Việt Nam năm 2008 qua công bố quốc tế
Nhầm lẫn trong y khoa: Khá phổ biến, nhưng ít ai biết!
Những câu hỏi và trả lời về dịch gia cầm
Những sai sót khó tin nhưng có thật
Những sai sót nguy hiểm trong toa thuốc
Những điều khó tin về “Bảy điều khó tin nhất trong y học”
Năm lí do cho mắm tôm “vô tội”
Phán quyết sau cùng: Chất béo không ảnh hưởng đến ung thư và bệnh tim
Phát hiện gien kiểm soát ráy tai: vài bài học về mò kim đáy biển
Phòng chống bệnh phải dựa vào bằng chứng khoa học!
Phòng chống H1N1 bằng rửa tay và khẩu trang: Biện pháp nào hiệu quả hơn?
Qui định cấp giấy phép lái xe dựa vào chiều cao và cân nặng: thiếu cơ sở khoa học và kì thị giới tính
Qui định cấp giấy phép lái xe dựa vào chiều cao: vấn đề giả định và bằng chứng khoa học
Quyền phê phán và trí thức
Quyền được tiếp cận hồ sơ bệnh án
Quản lý chất lượng: Thuốc phòng "tai nạn y khoa"
Rửa tay bằng xà phòng và tiêu chảy
Serotonin có liên quan đến chứng đột tử
Suy dinh dưỡng ở trẻ em: vấn đề của kinh tế
Sàng lọc trẻ sơ sinh trên phạm vi toàn quốc
Tai nạn y khoa trong bệnh viện
Thế nào là một "bài báo khoa học"
Thế nào là “Cơ sở khoa học” ?
Thịt chó là nguyên nhân của bệnh tiêu chảy cấp tính?
Thịt chó và bệnh tả: nguyên nhân và yếu tố nguy cơ
Tiên lượng bệnh Alzheimer bằng protein expression ?
Tiêu chuẩn chất lượng giáo dục đại học
Tiêu chuẩn chẩn đoán béo phì cho người Việt - Nguyễn Văn Tuấn
Tiêu chuẩn chẩn đoán bệnh đái tháo đường (diabetes mellitus)
Tiêu chuẩn đề bạt giáo sư: Có nên căn cứ vào số lượng bài báo ?
Tiêu chảy cấp tính và bệnh tả: Định danh cho đúng
Truy tìm ung thư bằng mammography từ tuổi 50
Truyền thông và khoa học: Qui ước Ingelfinger
Truyền thông và y tế
Truyền thông, khoa học và … doanh nghiệp
Trà xanh và sức khỏe
Trách nhiệm và nhân đạo trong vấn đề chất độc da cam
Trái chanh và phòng chống bệnh tả
Trả lời những câu hỏi liên quan đến loãng xương
Trọng lượng cơ thể và tử vong ở người Trung Quốc: Ý nghĩa về việc xác định tiêu chuẩn chẩn đoán béo phì
Tuổi thọ của người dân giảm 10 năm ?
Tác dụng Placebo trong y học: Tâm lí và ý nghĩa
Tình yêu, sắc đẹp nhìn dưới quan điểm di truyền học
Tín hiệu môi trường từ những “làng ung thư”
Tính khoa học và minh bạch đằng sau xét nghiệm doping
Tại sao không phát biểu về nguyên nhân và hệ quả ?
Tại sao uống rượu gây đỏ mặt và nguy cơ ung thư thực quản
Tạo sinh vô tính và cái chết của Thượng đế
Tạo sinh vô tính và vấn đề sinh đạo đức
Tản mạn về SARS
Tỉ lệ tử vong do cúm heo là bao nhiêu ?
Tự trị, chất lượng và y đức thay vì cổ phần hóa bệnh viện công
Ung thư vú và vấn đề thông tin y khoa
Uống bia hấp dẫn muỗi
Vaccine phòng chống AIDS hiệu quả đến đâu ?
Vaccine phòng chống cúm A/H1N1
Vi khuẩn gây tiêu chảy và ý nghĩa tiêm chủng
Vi khuẩn tả trong chó ?
Viết văn có thể chữa nhiều loại bệnh
Viết văn và trị liệu
Việc ta, ta cứ làm!
Vài nhận xét về 12 điều lệ y đức của Việt Nam
Vài thông tin cần biết về các chương trình truy tìm ung thư vú
Vài đóng góp quan trọng của người Việt khoa học thống kê
Văn hóa khoa học
Văn hóa tranh luận và vấn đề ngụy biện
Vấn đề sinh tố: kẽm và đồng
Vấn đề truy tìm ung thư phổi và hiệu quả 
Vấn đề y đức trong nghiên cứu tế bào mầm (stem cells)
Vấn đề đo lường melamine
Vấn đề đào tạo tiến sĩ: kinh nghiệm từ Australia
Vắc-xin phòng chống ung thư cổ tử cung
Vắcxin ngừa viêm gan B: cẩn thận với “nhiễu thông tin”
Vắcxin ngừa viêm gan B: kinh nghiệm từ nước ngoài
Vắcxin phòng bệnh sởi - quai bị - Rubella: lợi và hại
Vắcxin phòng chống ung thư cổ tử cung: hiệu quả lâm sàng và kinh tế
Vắcxin phòng ngừa bệnh tả: rất cần thiết
Về chấn chỉnh đào tạo tiến sĩ: Công bố bài báo khoa học là một thách thức lớn ?
Về học vị tiến sĩ
Về một sự hiểu lầm thuật ngữ "prospective"
Về phản ứng phụ của bisphosphonates liên quan đến hoại tử xương hàm và rung nhĩ
Vệ sinh như là một loại hàng hóa
Vị thế của nền khoa học Việt Nam
Xung quang xì căng đan về nghiên cứu tế bào mầm
Xã hội hóa và an toàn thực phẩm
Xếp hạng đại học: cần minh bạch hóa phương pháp
Y học hiện đại và những hứa hẹn
Y học thực chứng: vài nét khái quát
Y Khoa và những nhầm lẫn chết người
Y tế dự phòng: nền tảng của y khoa hiện đại
Y đức và nghiên cứu y học
Ói mửa, cao huyết áp và hôn mê
Ăn chay như là một trị liệu
Ăn chay và loãng xương
Điều trị bệnh dựa vào màu da ?
Điều trị đau dây thần kinh tọa bằng phẫu thuật: không có hiệu quả
Đo lường hiệu suất khoa học
Đánh giá đúng tầm quan trọng của ung thư vú 
Đại dịch H1N1
Đại dịch và đại dịch ảo
Đại dịch đã đến ?
Đạo văn trong hoạt động khoa học
Đậu nành và sức khỏe: đâu là thực và đâu là giả
Đậu nành và sức khỏe: đâu là thực và đâu là giả
Đằng sau những con số hàm lượng đạm trong sữa
Đế quốc Trà
Đề bạt các chức danh khoa bảng: vài kinh nghiệm từ Úc
Đọc lại 12 điều y đức của Việt Nam
Đồi điều về sữa nhiễm melamine
Đừng quên melamine trong các thực phẩm khác!
Ước vọng 200 ?
“Kỹ năng mềm” cho nhà khoa học
“Sẽ” và “có thể”


Trang nhiều tác giả
Trang riêng của Lê Ngọc Dũng
Trang riêng của Lương Lễ Hoàng
Trang riêng của Nguyễn Bảo Trung
Trang riêng của Nguyễn Hoài Nam
Trang riêng của Nguyễn Hữu Đức
Trang riêng của Nguyễn Văn Tuấn
Trang riêng của Nguyễn Ý Đức
Trang riêng của Nguyễn Đình Nguyên
Trang riêng của Phan Xuân Trung
Trang riêng của Đỗ Hồng Ngọc
Trang riêng của Đỗ Minh Tuấn