NGUYỄN VĂN TUẤN

Vắcxin ngừa viêm gan B: cẩn thận với “nhiễu thông tin”

Nguyễn Văn Tuấn

Tuổi Trẻ (17/5/2007) có bài viết “Hàng trăm ca tử vong sau khi tiêm văcxin viêm gan B ở Mỹ với nhiều thông tin không chính xác.  Phần lớn bài viết lấy thông tin từ trang web của ông Joseph Mercola ở bang Illinois (Mĩ), một bác sĩ vật lí trị liệu (osteopathic doctor) có nhiều ý kiến “phi chính thống” và nổi tiếng chống đối các chương trình tiêm chủng ngừa.  Ngay cả những “trung tâm” như “Trung tâm thông tin văcxin quốc gia Mỹ” tuy mới nghe qua có vẻ như là một trung tâm y tế nghiêm chỉnh, nhưng không được các hội đoàn y khoa chính thống công nhận, vì thực chất đây là một nhóm người “lobby” (chuyên tuyên truyền vận động) chống chương trình tiêm ngừa vắcxin ở Mĩ. 

Những ai còn nghi ngờ về nhận xét đó của tôi có thể đọc qua một số bài viết của ông Mercola và của “trung tâm” này sẽ thấy rất nhiều phát biểu của họ hoàn toàn không dựa trên một cơ sở khoa học nào, nhưng lại sử dụng tối đa cảm tính hóa vấn đề.  Cần nói thêm rằng trang web của ông Mercola đã bị Bộ Y tế Mĩ (Department of Health and Human Services) cảnh cáo vì những thông tin sai lạc [1].

Có quá nhiều thông tin trong bài viết hoặc thiếu cơ sở khoa học hoặc không đúng với tình hình thực tế ở Việt Nam.  Ở đây, tôi chỉ xin nêu vắn tắt những điểm chính có thể dễ gây ra ngộ nhận ở những bạn đọc thiếu thông tin về vấn đề này:

Thứ nhất, phát biểu rằng “Khác với các bệnh truyền nhiễm khác, viêm gan B không phổ biến ở trẻ em và không dễ lây truyền” có thể đúng ở Mĩ, nhưng không đúng ở Việt Nam, vì hiện nay ở nước ta có khoảng 13% trẻ em mới sinh (9 đến 18 tháng) và 18% trẻ em tuổi từ 4 đến 16 bị nhiễm viêm gan B [2].  Ngay cả ở độ tuổi vị thành niên và trưởng thành (trên 25 tuổi), tỉ lệ viêm gan B cũng khoảng 20%.  Đó là một tỉ lệ rất cao.  Tổ chức Y tế Thế giới đề nghị tiêm ngừa viêm gan B ở những vùng có tỉ lệ cao hơn 2%.  Chương trình tiêm ngừa viêm gan B đã được triển khai trên 150 nước trên thế giới, kể cả nước ta, từ hơn 20 năm qua và đã đạt được nhiều thành tựu ngoạn mục [3,4].

Thứ hai, phát biểu rằng “Văcxin viêm gan B đã được Cơ quan thuốc và thực phẩm Mỹ (FDA) cấp phép mà không có bằng chứng đầy đủ về tính an toàn dài hạn” là cực kì sai lầm.  Ngược lại, có rất nhiều bằng chứng khoa học cho thấy vắcxin ngừa viêm gan B rất hữu hiệu trong việc ngăn ngừa căn bệnh nguy hiểm này.  Xin lấy chương trình tiêm ngừa ở Đài Loan, được xem là một thành công tiêu biểu, làm ví dụ.  Ở Đài Loan, chương trình tiêm vắcxin ngừa viêm gan B được triển khai toàn quốc từ năm 1984, và chỉ trong vòng 10 năm sau khi triển khai chương trình tiêm chủng, tỉ lệ trẻ em mới sinh với viêm gan B giảm từ 10% xuống còn 1%.  Trong cùng thời gian, tỉ lệ ung thư gan ở trẻ em giảm gần 50% [5,6].   Thành công này cũng được ghi nhận ở các nước Phi câu và Á châu.

Thứ ba, cho rằng “Chưa tới 5% những người bị nhiễm virus viêm gan B sẽ mang bệnh mãn tính” cũng quá sai.  Viêm gan B là một bệnh nguy hiểm, là nguyên nhân dẫn đến các bệnh mãn tính như xơ gan, ung thư gan và tử vong.  Số liệu nghiên cứu cho thấy từ 8 đền 20% những trẻ em bị viêm gan B sẽ mắc nhiều bệnh mãn tính, kể cả ung thư gan khi trưởng thành [7]. Tuy ung thư gan thường thấy ở bệnh nhân 40 tuổi trở lên, nhưng ở những vùng có tỉ lệ viêm gan cao như Đông Nam Á, ung thư gan cũng được phát hiện khá nhiều ở trẻ em vị thành niên.  Nghiên cứu ở Đài Loan cho thấy gần 100% trẻ em ung thư gan là do viêm gan B [8]. 

            Thứ tư, tôi không thấy bất cứ bằng chứng nào làm cơ sở cho phát biểu “… trong khoảng 1990-1998 có 25.000 báo cáo cho thấy 439 trường hợp bị chết, hơn 9.000 tai biến nghiêm trọng”.  Như trình bày trong một bài trước, một nghiên cứu ở Mĩ về sự cố và hiệu ứng của tiêm vắcxin cho thấy tính từ 1991 đến 1998, có 18 trường hợp trẻ em (8 nam, 9 nữ và 1 trường hợp không rõ giới) mới sinh chết sau khi tiêm vắcxin ngừa viêm gan B.  Phân tích chi tiết nguyên nhân tử vong cho thấy có 12 trường hợp chết do đột tử (sudden infant death syndrome hay SIDS), 3 trường hợp do nhiễm trùng, 1 trường hợp do xuất huyết não, và 1 trường hợp không rõ nguyên nhân.  Trong cùng thời gian, có hơn 86 triệu liều vắcxin được tiêm cho trẻ em.  Các tác giả nghiên cứu kết luận rằng “các số liệu này cho thấy tiêm ngừa viêm gan B không làm gia tăng nguy cơ tử vong ở trẻ em” [9].

Tuy chương trình tiêm ngừa vắcxin ở nước ta đang gặp khó khăn trước 4 trường hợp tử vong và chưa rõ nguyên nhân, nhưng kinh nghiệm từ nước ngoài cho thấy chương trình này đem lại lợi ích lớn cho cộng đồng.  Chúng ta có thể làm một vài tính toán đơn giản để thấy lợi ích này.  Mỗi năm, có khoảng 1,5 triệu trẻ em mới sinh, và với tỉ lệ nhiễm 13%, chúng ta có thể ước tính có đến 202.000 em nhiễm viêm gan B.  Nếu không tiêm vắcxin, số trẻ em này sẽ mắc bệnh khi trường thành, và khoảng 15% đến 25% sẽ bị chết vì các bệnh mãn tính liên quan đến gan và ung thư gan.  Nhưng tiêm vắcxin lúc mới sinh có thể xóa bỏ khoảng 90% đến 95% các trường hợp viêm gan B, và do đó, có thể cứu sống cho hơn 38.000 người.

            Quay trở lại vấn đề thông tin, có thể nói rằng cuộc cách mạng thông tin ngày nay đã đem lại cho bác sĩ và bệnh nhân một cơ hội và cũng là một lợi ích mà họ chưa bao giờ có được trong vài thập niên trước đây: đó là sự tiếp cận với thông tin y khoa qua internet.  Internet là một thư viện thông tin vĩ đại, nhưng cũng như các phương tiện truyền thông khác, có rất nhiều thông tin trên internet chưa bao giờ qua kiểm chứng, không rõ nguồn gốc, nhưng được truyền đi với một mục tiêu vì lợi ích cá nhân.  Sàng lọc thông tin có ích từ từ “đống rác” này đòi hỏi vài kĩ năng chuyên môn.  Như nói trên, trang web của ông Mercola mà Tuổi Trẻ trích dẫn đã từng bị Bộ Y tế cảnh cáo hai lần và Cơ quan quản lí thực phẩm và thuốc của Mĩ (FDA) yêu cầu ông ngưng tuyên truyền sai.

Trong khoa học, niềm tin và kinh nghiệm cá nhân không thể xem là khách quan, và không thể làm nền tảng để hành động, nếu những kinh nghiệm đó chưa qua thử nghiệm khách quan.  Do đó, y học trong thế kỉ 21 là “y học thực chứng” (evidence-based medicine).  Theo đó, tất cả các phương pháp điều trị, các chương trình y tế công cộng, và thực hành y khoa phải nên dựa vào bằng chứng khoa học [10].  Bằng chứng khoa học khách quan nhất và đáng tin cậy nhất là những báo cáo trong các tập san khoa học quốc tế của các hội đoàn chuyên khoa, chứ không phải những phát biểu cá nhân không có cơ sở khoa học.  Chúng ta phải hành xử và phán xét dựa trên cơ sở dữ kiện nghiên cứu, những dữ kiện được thu thập một cách khách quan, chứ không dựa vào cảm tính hay theo phong trào hay áp lực.

Chú thích: Để cung cấp cho bạn đọc quan tâm và đồng nghiệp y khoa, những phát biểu của tôi trong bài này dựa vào những công trình nghiên cứu khoa học sau đây (số thứ tự chỉ nguồn tham khảo cho từng phát biểu quan trọng trong bài viết):

1.       Xin xem lá thư cảnh cáo “Warning Letter” ngày 16/2/2005 của Bộ y tế gửi ông Mercola trong trang web này: http://www.casewatch.org/fdawarning/prod/2005/mercola.shtml. Đến năm 2006, Bộ y tế Mĩ lại cảnh cáo ông một lần nữa (xem thư “Warning Letter đề ngày 21/9/2006 tại http://www.casewatch.org/fdawarning/prod/2006/mercola2.shtml)

2.       Hipgrave DB, et al. Hepatitis B infection in rural Vietnam and the implications for a national program of infant immunization.  American Journal of Tropical Medicine and Hygiene 2003; 69:288-94.

3.       Francois G, et al.  Vaccine safety controversies and the future of vaccination programs.  Paediatric Infectious Disease Journal 2005; 11:953-61.

4.       Shepard CW, et al. Hepatitis B virus infection: Epidemiology and vaccination.  Epidemiologic Review 2006;28:112-125.

5.       Chang MH, et al. Universal hepatitis B vaccination in Taiwan and the incidence of hepatocellular carcinoma in children. New England Journal of Medicine 1997; 336:1855-9.

6.       Chang MH, et al. Hepatitis B vaccination and hepatocellular carcinoma rates in boys and girls. JAMA 2000; 284:3040-2.

7.       World Health Organization. Hepatitis B. www.who.int/vaccines-diseases/hepatitis_b.htm.

8.       Chang MH, et al. Maternal transmission of heptatitis B virus in childhood hepatocellular carcinoma. Cancer 1989; 64:2377-80.

9.       Niu MT, et al. Neonatal deaths after hepatitis B vaccine.  Archives of Pediatric Adolescent Medicine 1999; 153:1279-82.

10.   Về y học thực chứng, xin xem cuốn “Hai mặt sáng tối của y học hiện đại” của Nguyễn Văn Tuấn, Nhà xuất bản Trẻ in lần thứ 2 năm 2006.

 

 


200 năm Darwin
Agent Orange: collateral damage
Alexandre Yersin và Việt Nam
Bàn về hiệu quả vắcxin: lâm sàng và kinh tế
Bàn về vấn đề dịch thuật và đánh giá năng suất khoa học
Béo phì ở người Á châu
Béo phì ở trẻ em và virus
Bình luận từ Dr. Yến
Bưởi không gây ung thư vú
Bảo hiểm y tế cộng đồng
Bảo tồn môi sinh: Chiến tranh giữa hai thế giới
Bằng chứng khoa học thay vì lên lớp
Bệnh tả: không để Việt Nam thành Bangladesh thứ hai
Bệnh tật nhìn từ quan điểm của thuyết tiến hóa
Bệnh xơ hóa cơ delta qua y văn thế giới
Bổ sung kẽm và điều trị bệnh tả
Bộ gen trong cây lúa và triển vọng
Bộ Y tế phản ứng chậm với rét đậm
Chiều cao của người Việt
Chiều cao và tổng thống Mĩ
Cholesterol và bệnh Tim
Cholesterol: hung thần hay bạn?
Chuột và... các nhà khoa học
Chính sách y tế cần dựa vào bằng chứng khoa học
Chạy đua vũ khí và … dịch cúm
Chất béo, cholesterol, bệnh tim và statins: xét lại bằng chứng
Chất keo xã hội: hormones
Chất lượng nghiên cứu dịch tễ học và y tế cộng đồng của Việt Nam qua chỉ số H
Chất lượng nghiên cứu khoa học ở Việt Nam qua chỉ số trích dẫn
Chất vấn chuẩn chẩn đoán béo phì
Chế độ ăn uống với nhiều thịt động vật và nguy cơ tử vong
Chủng vi khuẩn tả hiện nay ở nước ta có phải mới xuất hiện?
Cuộc chiến hóa học phi pháp lớn nhất trong lịch sử chiến tranh
Câu chuyện y học: Leptin và béo phì
Có bao nhiêu bác sĩ viết chữ khó đọc
Có nên tập trung vào vi khuẩn E. coli ?
Có thể xảy ra đại dịch cúm gia cầm?
Công cụ đơn giản để chẩn đoán tiểu đường ở người Đông Nam Á
Cúm gia cầm và nhiễu thông tin
Cúm H1N1: biết và chưa biết
Cơ hội để khép lại một chương lịch sử đau lòng
Cần hiểu đúng về Ung thư và nguy cơ ung thư
Cần qui ước đạo đức cho kĩ nghệ thực phẩm
Cần tiêm chủng ngừa bệnh tả vùng có nguy cơ cao
Cần điều tra về chất lượng bệnh viện
Cổ phần hóa bệnh viện công và chất lượng
Cổ phần hóa: chưa phải cách duy nhất
DDT và vấn đề cân đối giữa lợi ích và nguy hiểm
Dinh dưỡng: một nguồn thuốc quí giá
DNA không nói dối, nhưng DNA có thể nói … sai
Dịch cúm gà: hoang mang và sự thật khoa học
Dịch cúm heo và tác hại kinh tế
Dịch tay-chân-miệng
Dịch tả: gọi đúng tên để phòng ngừa
Dựa vào khoa học, đừng dựa vào niềm tin!
E. coli – vài câu hỏi thông thường
Gen và bệnh tật
Ghen tuông dưới cái nhìn của tâm lí y khoa
Gian lận trong nghiên cứu khoa học: áp lực kinh tế và cơ chế bình duyệt
GIÁO DỤC ĐẠI HỌC: KHƠI DẬY VÀ NUÔI DƯỠNG TÍNH HAM HỌC
Giải nobel y học hay sinh lí học 2007 và lợi ích cho người bệnh
Giải Nobel Y sinh học 2008 và những tranh chấp khoa học
Giải Nobel y sinh học 2010 vinh danh người đem niềm vui cho người vô sinh
Giải Nobel y sinh học năm 2005: Một cõi đi về với vi khuẩn
Giải Nobel y sinh học: Nhìn lại quãng đường 100 năm
Giải phẫu ghép mặt và vấn đề y đức
Gout ở xương sống
Gãy xương và tử vong: một vấn nạn y tế cộng đồng
Hiệu quả vắcxin có nghĩa gì?
Hoa vàng mấy độc
Hàm lượng đạm trong sữa “siêu thấp” hay “siêu cao”?
Hóa chất khai hoang trong cuộc chiến Viện Nam: Qui mô và tầm ảnh hưởng
Hướng đi nào để giải quyết vấn đề chất độc da cam ở Việt Nam
Hậu “mắm tôm được minh oan”: bằng chứng khoa học, nhà xí và nghiên cứu
Hệ Thống Học Vị Và Học Hàm Khoa Học Ở Vài Nước Tây Phương
Hợp tác khoa học kiểu nhảy dù - Nguyễn Văn Tuấn
Khi bác sĩ trẻ “khoe” quá nhiều
Khoa học và ngụy khoa học: một vài đặc điểm và khác biệt cần biết
Khoa học, xã hội, và rủi ro
Không thể thành Phù Đổng trong 20 năm!
Khẩu trang và phòng chống cúm A/H1N1
Kiểm định giả thuyết mắm tôm và vi khuẩn tả
Liều lượng melamine bao nhiêu là an toàn?
Lí lịch sinh học của heo và dấu vết văn minh nông nghiệp Đông Nam Á
Lượng giá mạng sống con người
Lợi ích của vitamin D
Miệng nhà quan
Mắm tôm có phải là “thủ phạm” gây bệnh tả? Xét lại bằng chứng khoa học
Mắm tôm và chuyện xin lỗi
Mắm tôm và dịch tả: phân biệt yếu tố nguy cơ và nguyên nhân
Mắm tôm vô tội!
Mắm tôm, nguyên nhân và hệ quả
Mối quan hệ giữa giới y khoa và kĩ nghệ dược
Mối quan hệ giữa giới y khoa và kĩ nghệ dược
Một bệnh hiếm X-linked recessive hypoparathyroidism
Một lần đi phỏng vấn
Một năm nhìn lại
Một phán quyết thiếu cơ sở khoa học
Một vài hiểu lầm tai hại
Một vài ngộ nhận về nghiên cứu khoa học
Một vài vấn đề về qui định chức danh giáo sư ở Việt Nam
Một vụ Madoff trong y khoa: Lại một ngôi sao y khoa rơi rụng!
Mỡ trắng, mỡ nâu
Mỡ  trong máu, huyết áp, và  tiểu đường
Nghiên cứu y học ở Việt Nam: Đặc điểm, thiếu sót, và sai sót
Nghiên cứu y học ở Việt Nam: Đặc điểm, thiếu sót, và sai sót
Nguyên nhân bệnh tiêu chảy
Ngó trên tay điếu thuốc đã lụi dần
Người cao tuổi và sự hạn chế của y khoa
Người ăn chay có mật độ xương như người ăn mặn
Người ăn chay có mật độ xương như người ăn mặn
Nhân chuyện dịch tả nhớ lại John Snow
Nhân câu chuyện điện não đồ xét nghiệm nghiện ma túy:
Nhân năm khỉ_nguồn gốc con người hiện đại
Nhân năm Tý bàn chuyện thí nghiệm trên chuột
Nhìn lại khoa học Việt Nam năm 2008 qua công bố quốc tế
Nhầm lẫn trong y khoa: Khá phổ biến, nhưng ít ai biết!
Những câu hỏi và trả lời về dịch gia cầm
Những sai sót khó tin nhưng có thật
Những sai sót nguy hiểm trong toa thuốc
Những điều khó tin về “Bảy điều khó tin nhất trong y học”
Năm lí do cho mắm tôm “vô tội”
Phán quyết sau cùng: Chất béo không ảnh hưởng đến ung thư và bệnh tim
Phát hiện gien kiểm soát ráy tai: vài bài học về mò kim đáy biển
Phòng chống bệnh phải dựa vào bằng chứng khoa học!
Phòng chống H1N1 bằng rửa tay và khẩu trang: Biện pháp nào hiệu quả hơn?
Qui định cấp giấy phép lái xe dựa vào chiều cao và cân nặng: thiếu cơ sở khoa học và kì thị giới tính
Qui định cấp giấy phép lái xe dựa vào chiều cao: vấn đề giả định và bằng chứng khoa học
Quyền phê phán và trí thức
Quyền được tiếp cận hồ sơ bệnh án
Quản lý chất lượng: Thuốc phòng "tai nạn y khoa"
Rửa tay bằng xà phòng và tiêu chảy
Serotonin có liên quan đến chứng đột tử
Suy dinh dưỡng ở trẻ em: vấn đề của kinh tế
Sàng lọc trẻ sơ sinh trên phạm vi toàn quốc
Tai nạn y khoa trong bệnh viện
Thế nào là một "bài báo khoa học"
Thế nào là “Cơ sở khoa học” ?
Thịt chó là nguyên nhân của bệnh tiêu chảy cấp tính?
Thịt chó và bệnh tả: nguyên nhân và yếu tố nguy cơ
Tiên lượng bệnh Alzheimer bằng protein expression ?
Tiêu chuẩn chất lượng giáo dục đại học
Tiêu chuẩn chẩn đoán béo phì cho người Việt - Nguyễn Văn Tuấn
Tiêu chuẩn chẩn đoán bệnh đái tháo đường (diabetes mellitus)
Tiêu chuẩn đề bạt giáo sư: Có nên căn cứ vào số lượng bài báo ?
Tiêu chảy cấp tính và bệnh tả: Định danh cho đúng
Truy tìm ung thư bằng mammography từ tuổi 50
Truyền thông và khoa học: Qui ước Ingelfinger
Truyền thông và y tế
Truyền thông, khoa học và … doanh nghiệp
Trà xanh và sức khỏe
Trách nhiệm và nhân đạo trong vấn đề chất độc da cam
Trái chanh và phòng chống bệnh tả
Trả lời những câu hỏi liên quan đến loãng xương
Trọng lượng cơ thể và tử vong ở người Trung Quốc: Ý nghĩa về việc xác định tiêu chuẩn chẩn đoán béo phì
Tuổi thọ của người dân giảm 10 năm ?
Tác dụng Placebo trong y học: Tâm lí và ý nghĩa
Tình yêu, sắc đẹp nhìn dưới quan điểm di truyền học
Tín hiệu môi trường từ những “làng ung thư”
Tính khoa học và minh bạch đằng sau xét nghiệm doping
Tại sao không phát biểu về nguyên nhân và hệ quả ?
Tại sao uống rượu gây đỏ mặt và nguy cơ ung thư thực quản
Tạo sinh vô tính và cái chết của Thượng đế
Tạo sinh vô tính và vấn đề sinh đạo đức
Tản mạn về SARS
Tỉ lệ tử vong do cúm heo là bao nhiêu ?
Tự trị, chất lượng và y đức thay vì cổ phần hóa bệnh viện công
Ung thư vú và vấn đề thông tin y khoa
Uống bia hấp dẫn muỗi
Vaccine phòng chống AIDS hiệu quả đến đâu ?
Vaccine phòng chống cúm A/H1N1
Vi khuẩn gây tiêu chảy và ý nghĩa tiêm chủng
Vi khuẩn tả trong chó ?
Viết văn có thể chữa nhiều loại bệnh
Viết văn và trị liệu
Việc ta, ta cứ làm!
Vài nhận xét về 12 điều lệ y đức của Việt Nam
Vài thông tin cần biết về các chương trình truy tìm ung thư vú
Vài đóng góp quan trọng của người Việt khoa học thống kê
Văn hóa khoa học
Văn hóa tranh luận và vấn đề ngụy biện
Vấn đề sinh tố: kẽm và đồng
Vấn đề truy tìm ung thư phổi và hiệu quả 
Vấn đề y đức trong nghiên cứu tế bào mầm (stem cells)
Vấn đề đo lường melamine
Vấn đề đào tạo tiến sĩ: kinh nghiệm từ Australia
Vắc-xin phòng chống ung thư cổ tử cung
Vắcxin ngừa viêm gan B: cẩn thận với “nhiễu thông tin”
Vắcxin ngừa viêm gan B: kinh nghiệm từ nước ngoài
Vắcxin phòng bệnh sởi - quai bị - Rubella: lợi và hại
Vắcxin phòng chống ung thư cổ tử cung: hiệu quả lâm sàng và kinh tế
Vắcxin phòng ngừa bệnh tả: rất cần thiết
Về chấn chỉnh đào tạo tiến sĩ: Công bố bài báo khoa học là một thách thức lớn ?
Về học vị tiến sĩ
Về một sự hiểu lầm thuật ngữ "prospective"
Về phản ứng phụ của bisphosphonates liên quan đến hoại tử xương hàm và rung nhĩ
Vệ sinh như là một loại hàng hóa
Vị thế của nền khoa học Việt Nam
Xung quang xì căng đan về nghiên cứu tế bào mầm
Xã hội hóa và an toàn thực phẩm
Xếp hạng đại học: cần minh bạch hóa phương pháp
Y học hiện đại và những hứa hẹn
Y học thực chứng: vài nét khái quát
Y Khoa và những nhầm lẫn chết người
Y tế dự phòng: nền tảng của y khoa hiện đại
Y đức và nghiên cứu y học
Ói mửa, cao huyết áp và hôn mê
Ăn chay như là một trị liệu
Ăn chay và loãng xương
Điều trị bệnh dựa vào màu da ?
Điều trị đau dây thần kinh tọa bằng phẫu thuật: không có hiệu quả
Đo lường hiệu suất khoa học
Đánh giá đúng tầm quan trọng của ung thư vú 
Đại dịch H1N1
Đại dịch và đại dịch ảo
Đại dịch đã đến ?
Đạo văn trong hoạt động khoa học
Đậu nành và sức khỏe: đâu là thực và đâu là giả
Đậu nành và sức khỏe: đâu là thực và đâu là giả
Đằng sau những con số hàm lượng đạm trong sữa
Đế quốc Trà
Đề bạt các chức danh khoa bảng: vài kinh nghiệm từ Úc
Đọc lại 12 điều y đức của Việt Nam
Đồi điều về sữa nhiễm melamine
Đừng quên melamine trong các thực phẩm khác!
Ước vọng 200 ?
“Kỹ năng mềm” cho nhà khoa học
“Sẽ” và “có thể”


Trang nhiều tác giả
Trang riêng của Lê Ngọc Dũng
Trang riêng của Lương Lễ Hoàng
Trang riêng của Nguyễn Bảo Trung
Trang riêng của Nguyễn Hoài Nam
Trang riêng của Nguyễn Hữu Đức
Trang riêng của Nguyễn Văn Tuấn
Trang riêng của Nguyễn Ý Đức
Trang riêng của Nguyễn Đình Nguyên
Trang riêng của Phan Xuân Trung
Trang riêng của Đỗ Hồng Ngọc
Trang riêng của Đỗ Minh Tuấn