NGUYỄN VĂN TUẤN

Trái chanh và phòng chống bệnh tả

Nguyễn Văn Tuấn

Đôi khi phương tiện phòng chống bệnh nằm nay trong tầm tay của chúng ta.  Trong quá trình truy tìm tài liệu tham khảo về các yếu tố nguy cơ và biện pháp phòng chống bệnh tả tôi “phát hiện” rằng trái chanh có hiệu quả tiêu diệt vi khuẩn V. cholerae rất hữu hiệu.  Nhưng các chỉ dẫn của Bộ Y tế về phòng chống bệnh tả không nhắc đến chanh!  Bài viết ngắn này giới thiệu đến các bạn và đồng hương hiệu quả của chanh, một loại trái cây mà bất cứ ai trong chúng ta cũng từng biết qua.

 

 

Năm 1885, nhà sinh vật học người Đức tên Robert Koch khám phá vi khuẩn Vibrio cholerae (viết tắt là V. cholerae) chính là thủ phạm gây bệnh tả.  Cơ chế gây bệnh của vi khuẩn tương đối phức tạp, nhưng có thể mô tả ngắn gọn như sau: vi khuẩn V. cholerae tương tác với các protein sản sinh ra một độc tế có tên là cholera trong đường ruột để “mở cửa” các kênh ion và từ đó gây ra tình trạng mất nước trong cơ thể.  Hệ quả là bệnh nhân bị tiêu chảy và ói mửa.  Một cá nhân phải tiếp thụ 2 triệu vi khuẩn mới mắc bệnh tả. 

 

            Nhưng vi khuẩn V. cholerae có thể sống trên mặt nước và trong nước giếng trong một thời gian dài, và từ đó làm ô nhiễm nguồn nước ở qui mô lớn.  Hầu hết các trận dịch tả trên thế giới đều bắt nguồn và lan truyền qua nước.  Bão lụt cũng là một phương tiện lan truyền vi khuẩn đến các vùng xa hơn.  Vi khuẩn còn tồn tại trong các loại thực phẩm như cua, ghẹ, sò, trái cây, rau cải, và gạo.  Nạn dịch tả xảy ra ở Mĩ vào thập niên 1970s bắt đầu từ sò và cua bị nhiễm vi khuẩn ở Vịnh Mexico. 

 

Tuy nhiên, vi khuẩn V. cholerae khó sống trong môi trường axít hay nhiệt độ cao.  Vi khuẩn không tồn tại trong điều kiện pH < 2.4.  Chính vì thế mà không phải ai nhiễm vi khuẩn đều mắc bệnh, bởi vì khi vi khuẩn xâm nhập vào bao tử, chúng sẽ bị axít của bao tử tiêu diệt.  Nhưng nếu một cá nhân tiếp thụ nhiều vi khuẩn (trên 2 triệu), một số sẽ sống sót, xâm nhập vào ruột non, và có khả năng gây bệnh.  Phần lớn trường hợp bệnh tả tương đối nhẹ, chỉ có khoảng 5% là nặng.  Ngày nay với y khoa hiện đại, bệnh tả có thể điều trị khỏi tương đối nhanh, và không còn là một mối đe dọa nguy hiểm cho con người.  Nhưng nếu không điều trị thì bệnh có thể gây ra tử vong cho một số trường hợp. 

 

            Phòng bệnh hơn chữa bệnh.  Lợi dụng “điểm yếu” của vi khuẩn V. cholerae (khó sống trong môi trường axít), các nhà nghiên cứu thí nghiệm sử dụng chanh để tiêu diệt vi khuẩn, và kết quả rất khả quan.  Một loạt nghiên cứu thí nghiệm cho thấy chỉ cần một hay hai trái chanh có thể dễ dàng tiêu diệt vi khuẩn trong vòng vài phút.  Trong một thí nghiệm được tiến hành ở Nam Mĩ, nơi mà người dân hay ăn gạo với xốt (sauce) đậu phộng, các nhà nghiên cứu cho gạo bị nhiễm vi khuẩn và theo dõi sự tăng trưởng số vi khuẩn trong một thời gian từ 30 phút đến 24 giờ.  Sau đó họ khử trùng bằng 1, 2, và 5 trái chanh, và xem xét bao nhiêu vi khuẩn tồn tại.  Kết quả (Bảng 1).  Chỉ cần sử dụng 1 trái chanh sau 3 giờ (180 phút) không còn vi khuẩn nào tồn tại.

 

Bảng 1. Tăng trưởng của vi khuẩn V. cholerae và hiệu quả diệt khuẩn của chanh

 

Gạo với xốt (sauce)

Thời gian (phút)

0

30

180

360

720

1440

Xốt đậu phộng không có chanh

15870

2269

34065

>400000

>500000

>500000

Xốt đậu phộng + 1 trái chanh

6258

3678

0

0

201

0

Xốt đậu phộng + 2 trái chanh

3142

762

0

0

0

0

Xốt đậu phộng + 5 trái chanh

0

0

0

0

0

0

 

Nguồn: Xem tài liệu tham khảo [1]

           

            Một thí nghiệm khác trên cá (bị làm cho nhiễm vi khuẩn V. cholerae) cho thấy chỉ cần khử trùng bằng một trái chanh, trong vòng 5 phút, 99,9% số vi khuẩn bị tiêu diệt.  Sau 2 giờ khử trùng, không còn một vi khuẩn nào tồn tại [2].  Tương tự, khi bắp cải và rau xà lách được khử (pha trộn) bằng chanh, trong vòng 5 phút, không còn vi khuẩn tồn tại [3].

 

            Ngoài ra, chanh còn có hiệu quả diệt các vi khuẩn gây tiêu chảy như V. vulnificus, V. mimicus, V. anguillarumV. parahemolyticus.  Một thí nghiệm từ Nhật cho thấy khi các vi khuẩn trên cho “tiếp xúc” với chanh (nồng độ pH = 2.1 đến 2.2), sau 40 phút không một vi khuẩn nào tồn tại [4].

 

            Nghiên cứu lâm sàng về hiệu quả của chanh ở người cũng cho thấy chanh có hiệu quả giảm nguy cơ mắc bệnh tả đến 70%-80%.  Ngay cả cà chua cũng có thể giảm nguy cơ mắc bệnh đến 57% [1].

 

Các bằng chứng khoa học trên đây cho thấy một cách nhất quán rằng chanh có hiệu quả diệt vi khuẩn V. cholerae rất hữu hiệu.  Thế nhưng, ngạc nhiên thay, trong các văn bản chỉ dẫn phòng chống bệnh tả mà Bộ Y tế công bố không đề cập đến chanh!  Chanh là một loại trái cây rất phổ biến và thông dụng ở nước ta.  Do đó, các nghiên cứu vừa trình bày cũng có nghĩa là phương tiện phòng chống bệnh tả nằm trong tay chúng ta. 

 

            Cố nhiên, phòng chống bệnh tả không chỉ tập trung vào một yếu tố nguy cơ hay chỉ dựa vào một biện pháp.  Các biện pháp khác như nấu chín thức ăn, uống nước đun sôi, làm sạch nguồn nước bằng cholorine, rửa tay trước khi bữa ăn hay sau khi đi tiểu / tiêu, tránh ăn rau cải sống, v.v… cũng là những biện pháp thực tế mà mỗi gia đình đều có thể thực hiện được.  Nhưng cũng phải thú nhận một thực tế là rất ít người có thể suốt ngày này sang tháng nọ ăn rau luộc chín.  Trong trường hợp (hay đối với những người vẫn còn) “mặn mà” với rau sống (và mắm tôm) thì trái chanh có thể là một liệu pháp an toàn để phòng chống vi khuẩn mà đảm bảo một bữa ăn thú vị.

Chú thích và tài liệu tham khảo:

Phát biểu trên báo chí gần đây, một quan chức y tế tỏ ra ngạc nhiên rằng bệnh tả xuất hiện ở Hà Nội.  Nhưng thật ra, bệnh tả không phải mới gì ở nước ta.  Theo y văn quốc tế (do người Pháp ghi lại), năm 1850, một trận dịch tả xảy ra ở miền Trung và Nam nước ta làm cho hơn 2 triệu người mắc bệnh.  Năm 1885, một trận dịch lớn khác bộc phát làm cho nhiều lính Pháp mắc bệnh; và trong số lính mắc bệnh tỉ lệ tử vong lên đến 50%!  Toàn quyền Paul Doumer cũng từng bị chết vì bệnh tả.  Từ năm 1910 đến 1930, trung bình mỗi năm có khoảng 5000 đến 30.000 trường hợp dịch tả được ghi nhận.  Năm 1961, một nạn dịch tả lớn bộc phát ở Nam Dương, và vi khuẩn V. cholerae O1 lan truyền sang đến miền Nam nước ta làm cho 20.009 người mắc bệnh và 821 người chết.  Từ năm 1979 đến 1996, trung bình mỗi năm có khoảng 3000 trường hợp dịch tả được báo cáo (xem Bảng 2).  Phần lớn những trường hợp này xảy ra ở miền Trung và Nam, đặc biệt là các tỉnh phía nam Trung phần như Phan Rang, Phan Thiết, Nha Trang, v.v… Các yếu tố nguy cơ được ghi nhận qua các trường hợp này liên quan đến nguồn nước: lượng mưa nhiều, nước uống thiếu vệ sinh hay bị nhiễm trùng, và thiếu cầu tiêu, cầu tiểu.

Bảng 2. Số trường hợp dịch tả ở Việt Nam từ 1979 đến 1996 phân chia theo vùng

 

Năm

Số trường hợp mắc bệnh theo vùng

Tỉ lệ tử vong (%)

Bắc

Trung

Nam

Cao Nguyên

1979

0

0

2017

0

9,6

1980

1685

0

6501

0

5,2

1981

442

1613

708

0

3,2

1982

0

126

1686

0

3,1

1983

78

3571

3750

0

2,0

1984

0

114

149

0

1,1

1985

381

3271

702

0

1,8

1986

1622

3147

832

0

1,2

1987

1018

218

833

0

1,1

1988

1389

916

224

12

1,6

1989

1

0

129

0

0,0

1990

0

798

1161

0

0,8

1991

3

142

0

0

2,1

1992

12

1849

649

0

0,5

1993

0

2684

776

0

0,3

1994

216

1822

626

1459

1,4

1995

814

3494

1327

453

0,7

1996

149

324

149

8

0,2

Nguồn: Xem tài liệu [5]

 

[1]  Rodrigues A.  Tropical Medicine and International Health 2000; 6:418-422.

[2]  Mata L, et al., Rev Biol Trop. 1994;42:479-85

[3]  Rodigues A, et al. Am J Trop Med Hyg. 1997;57:601-4.

[4]  Tomotake H, et al. J Nutr Sc Vitaminol 2006;52:157-160.

[5]  Daksgaard A, et al. J Clin Microbiol 1999;37(3):734-741.

 


200 năm Darwin
Agent Orange: collateral damage
Alexandre Yersin và Việt Nam
Bàn về hiệu quả vắcxin: lâm sàng và kinh tế
Bàn về vấn đề dịch thuật và đánh giá năng suất khoa học
Béo phì ở người Á châu
Béo phì ở trẻ em và virus
Bình luận từ Dr. Yến
Bưởi không gây ung thư vú
Bảo hiểm y tế cộng đồng
Bảo tồn môi sinh: Chiến tranh giữa hai thế giới
Bằng chứng khoa học thay vì lên lớp
Bệnh tả: không để Việt Nam thành Bangladesh thứ hai
Bệnh tật nhìn từ quan điểm của thuyết tiến hóa
Bệnh xơ hóa cơ delta qua y văn thế giới
Bổ sung kẽm và điều trị bệnh tả
Bộ gen trong cây lúa và triển vọng
Bộ Y tế phản ứng chậm với rét đậm
Chiều cao của người Việt
Chiều cao và tổng thống Mĩ
Cholesterol và bệnh Tim
Cholesterol: hung thần hay bạn?
Chuột và... các nhà khoa học
Chính sách y tế cần dựa vào bằng chứng khoa học
Chạy đua vũ khí và … dịch cúm
Chất béo, cholesterol, bệnh tim và statins: xét lại bằng chứng
Chất keo xã hội: hormones
Chất lượng nghiên cứu dịch tễ học và y tế cộng đồng của Việt Nam qua chỉ số H
Chất lượng nghiên cứu khoa học ở Việt Nam qua chỉ số trích dẫn
Chất vấn chuẩn chẩn đoán béo phì
Chế độ ăn uống với nhiều thịt động vật và nguy cơ tử vong
Chủng vi khuẩn tả hiện nay ở nước ta có phải mới xuất hiện?
Cuộc chiến hóa học phi pháp lớn nhất trong lịch sử chiến tranh
Câu chuyện y học: Leptin và béo phì
Có bao nhiêu bác sĩ viết chữ khó đọc
Có nên tập trung vào vi khuẩn E. coli ?
Có thể xảy ra đại dịch cúm gia cầm?
Công cụ đơn giản để chẩn đoán tiểu đường ở người Đông Nam Á
Cúm gia cầm và nhiễu thông tin
Cúm H1N1: biết và chưa biết
Cơ hội để khép lại một chương lịch sử đau lòng
Cần hiểu đúng về Ung thư và nguy cơ ung thư
Cần qui ước đạo đức cho kĩ nghệ thực phẩm
Cần tiêm chủng ngừa bệnh tả vùng có nguy cơ cao
Cần điều tra về chất lượng bệnh viện
Cổ phần hóa bệnh viện công và chất lượng
Cổ phần hóa: chưa phải cách duy nhất
DDT và vấn đề cân đối giữa lợi ích và nguy hiểm
Dinh dưỡng: một nguồn thuốc quí giá
DNA không nói dối, nhưng DNA có thể nói … sai
Dịch cúm gà: hoang mang và sự thật khoa học
Dịch cúm heo và tác hại kinh tế
Dịch tay-chân-miệng
Dịch tả: gọi đúng tên để phòng ngừa
Dựa vào khoa học, đừng dựa vào niềm tin!
E. coli – vài câu hỏi thông thường
Gen và bệnh tật
Ghen tuông dưới cái nhìn của tâm lí y khoa
Gian lận trong nghiên cứu khoa học: áp lực kinh tế và cơ chế bình duyệt
GIÁO DỤC ĐẠI HỌC: KHƠI DẬY VÀ NUÔI DƯỠNG TÍNH HAM HỌC
Giải nobel y học hay sinh lí học 2007 và lợi ích cho người bệnh
Giải Nobel Y sinh học 2008 và những tranh chấp khoa học
Giải Nobel y sinh học 2010 vinh danh người đem niềm vui cho người vô sinh
Giải Nobel y sinh học năm 2005: Một cõi đi về với vi khuẩn
Giải Nobel y sinh học: Nhìn lại quãng đường 100 năm
Giải phẫu ghép mặt và vấn đề y đức
Gout ở xương sống
Gãy xương và tử vong: một vấn nạn y tế cộng đồng
Hiệu quả vắcxin có nghĩa gì?
Hoa vàng mấy độc
Hàm lượng đạm trong sữa “siêu thấp” hay “siêu cao”?
Hóa chất khai hoang trong cuộc chiến Viện Nam: Qui mô và tầm ảnh hưởng
Hướng đi nào để giải quyết vấn đề chất độc da cam ở Việt Nam
Hậu “mắm tôm được minh oan”: bằng chứng khoa học, nhà xí và nghiên cứu
Hệ Thống Học Vị Và Học Hàm Khoa Học Ở Vài Nước Tây Phương
Hợp tác khoa học kiểu nhảy dù - Nguyễn Văn Tuấn
Khi bác sĩ trẻ “khoe” quá nhiều
Khoa học và ngụy khoa học: một vài đặc điểm và khác biệt cần biết
Khoa học, xã hội, và rủi ro
Không thể thành Phù Đổng trong 20 năm!
Khẩu trang và phòng chống cúm A/H1N1
Kiểm định giả thuyết mắm tôm và vi khuẩn tả
Liều lượng melamine bao nhiêu là an toàn?
Lí lịch sinh học của heo và dấu vết văn minh nông nghiệp Đông Nam Á
Lượng giá mạng sống con người
Lợi ích của vitamin D
Miệng nhà quan
Mắm tôm có phải là “thủ phạm” gây bệnh tả? Xét lại bằng chứng khoa học
Mắm tôm và chuyện xin lỗi
Mắm tôm và dịch tả: phân biệt yếu tố nguy cơ và nguyên nhân
Mắm tôm vô tội!
Mắm tôm, nguyên nhân và hệ quả
Mối quan hệ giữa giới y khoa và kĩ nghệ dược
Mối quan hệ giữa giới y khoa và kĩ nghệ dược
Một bệnh hiếm X-linked recessive hypoparathyroidism
Một lần đi phỏng vấn
Một năm nhìn lại
Một phán quyết thiếu cơ sở khoa học
Một vài hiểu lầm tai hại
Một vài ngộ nhận về nghiên cứu khoa học
Một vài vấn đề về qui định chức danh giáo sư ở Việt Nam
Một vụ Madoff trong y khoa: Lại một ngôi sao y khoa rơi rụng!
Mỡ trắng, mỡ nâu
Mỡ  trong máu, huyết áp, và  tiểu đường
Nghiên cứu y học ở Việt Nam: Đặc điểm, thiếu sót, và sai sót
Nghiên cứu y học ở Việt Nam: Đặc điểm, thiếu sót, và sai sót
Nguyên nhân bệnh tiêu chảy
Ngó trên tay điếu thuốc đã lụi dần
Người cao tuổi và sự hạn chế của y khoa
Người ăn chay có mật độ xương như người ăn mặn
Người ăn chay có mật độ xương như người ăn mặn
Nhân chuyện dịch tả nhớ lại John Snow
Nhân câu chuyện điện não đồ xét nghiệm nghiện ma túy:
Nhân năm khỉ_nguồn gốc con người hiện đại
Nhân năm Tý bàn chuyện thí nghiệm trên chuột
Nhìn lại khoa học Việt Nam năm 2008 qua công bố quốc tế
Nhầm lẫn trong y khoa: Khá phổ biến, nhưng ít ai biết!
Những câu hỏi và trả lời về dịch gia cầm
Những sai sót khó tin nhưng có thật
Những sai sót nguy hiểm trong toa thuốc
Những điều khó tin về “Bảy điều khó tin nhất trong y học”
Năm lí do cho mắm tôm “vô tội”
Phán quyết sau cùng: Chất béo không ảnh hưởng đến ung thư và bệnh tim
Phát hiện gien kiểm soát ráy tai: vài bài học về mò kim đáy biển
Phòng chống bệnh phải dựa vào bằng chứng khoa học!
Phòng chống H1N1 bằng rửa tay và khẩu trang: Biện pháp nào hiệu quả hơn?
Qui định cấp giấy phép lái xe dựa vào chiều cao và cân nặng: thiếu cơ sở khoa học và kì thị giới tính
Qui định cấp giấy phép lái xe dựa vào chiều cao: vấn đề giả định và bằng chứng khoa học
Quyền phê phán và trí thức
Quyền được tiếp cận hồ sơ bệnh án
Quản lý chất lượng: Thuốc phòng "tai nạn y khoa"
Rửa tay bằng xà phòng và tiêu chảy
Serotonin có liên quan đến chứng đột tử
Suy dinh dưỡng ở trẻ em: vấn đề của kinh tế
Sàng lọc trẻ sơ sinh trên phạm vi toàn quốc
Tai nạn y khoa trong bệnh viện
Thế nào là một "bài báo khoa học"
Thế nào là “Cơ sở khoa học” ?
Thịt chó là nguyên nhân của bệnh tiêu chảy cấp tính?
Thịt chó và bệnh tả: nguyên nhân và yếu tố nguy cơ
Tiên lượng bệnh Alzheimer bằng protein expression ?
Tiêu chuẩn chất lượng giáo dục đại học
Tiêu chuẩn chẩn đoán béo phì cho người Việt - Nguyễn Văn Tuấn
Tiêu chuẩn chẩn đoán bệnh đái tháo đường (diabetes mellitus)
Tiêu chuẩn đề bạt giáo sư: Có nên căn cứ vào số lượng bài báo ?
Tiêu chảy cấp tính và bệnh tả: Định danh cho đúng
Truy tìm ung thư bằng mammography từ tuổi 50
Truyền thông và khoa học: Qui ước Ingelfinger
Truyền thông và y tế
Truyền thông, khoa học và … doanh nghiệp
Trà xanh và sức khỏe
Trách nhiệm và nhân đạo trong vấn đề chất độc da cam
Trái chanh và phòng chống bệnh tả
Trả lời những câu hỏi liên quan đến loãng xương
Trọng lượng cơ thể và tử vong ở người Trung Quốc: Ý nghĩa về việc xác định tiêu chuẩn chẩn đoán béo phì
Tuổi thọ của người dân giảm 10 năm ?
Tác dụng Placebo trong y học: Tâm lí và ý nghĩa
Tình yêu, sắc đẹp nhìn dưới quan điểm di truyền học
Tín hiệu môi trường từ những “làng ung thư”
Tính khoa học và minh bạch đằng sau xét nghiệm doping
Tại sao không phát biểu về nguyên nhân và hệ quả ?
Tại sao uống rượu gây đỏ mặt và nguy cơ ung thư thực quản
Tạo sinh vô tính và cái chết của Thượng đế
Tạo sinh vô tính và vấn đề sinh đạo đức
Tản mạn về SARS
Tỉ lệ tử vong do cúm heo là bao nhiêu ?
Tự trị, chất lượng và y đức thay vì cổ phần hóa bệnh viện công
Ung thư vú và vấn đề thông tin y khoa
Uống bia hấp dẫn muỗi
Vaccine phòng chống AIDS hiệu quả đến đâu ?
Vaccine phòng chống cúm A/H1N1
Vi khuẩn gây tiêu chảy và ý nghĩa tiêm chủng
Vi khuẩn tả trong chó ?
Viết văn có thể chữa nhiều loại bệnh
Viết văn và trị liệu
Việc ta, ta cứ làm!
Vài nhận xét về 12 điều lệ y đức của Việt Nam
Vài thông tin cần biết về các chương trình truy tìm ung thư vú
Vài đóng góp quan trọng của người Việt khoa học thống kê
Văn hóa khoa học
Văn hóa tranh luận và vấn đề ngụy biện
Vấn đề sinh tố: kẽm và đồng
Vấn đề truy tìm ung thư phổi và hiệu quả 
Vấn đề y đức trong nghiên cứu tế bào mầm (stem cells)
Vấn đề đo lường melamine
Vấn đề đào tạo tiến sĩ: kinh nghiệm từ Australia
Vắc-xin phòng chống ung thư cổ tử cung
Vắcxin ngừa viêm gan B: cẩn thận với “nhiễu thông tin”
Vắcxin ngừa viêm gan B: kinh nghiệm từ nước ngoài
Vắcxin phòng bệnh sởi - quai bị - Rubella: lợi và hại
Vắcxin phòng chống ung thư cổ tử cung: hiệu quả lâm sàng và kinh tế
Vắcxin phòng ngừa bệnh tả: rất cần thiết
Về chấn chỉnh đào tạo tiến sĩ: Công bố bài báo khoa học là một thách thức lớn ?
Về học vị tiến sĩ
Về một sự hiểu lầm thuật ngữ "prospective"
Về phản ứng phụ của bisphosphonates liên quan đến hoại tử xương hàm và rung nhĩ
Vệ sinh như là một loại hàng hóa
Vị thế của nền khoa học Việt Nam
Xung quang xì căng đan về nghiên cứu tế bào mầm
Xã hội hóa và an toàn thực phẩm
Xếp hạng đại học: cần minh bạch hóa phương pháp
Y học hiện đại và những hứa hẹn
Y học thực chứng: vài nét khái quát
Y Khoa và những nhầm lẫn chết người
Y tế dự phòng: nền tảng của y khoa hiện đại
Y đức và nghiên cứu y học
Ói mửa, cao huyết áp và hôn mê
Ăn chay như là một trị liệu
Ăn chay và loãng xương
Điều trị bệnh dựa vào màu da ?
Điều trị đau dây thần kinh tọa bằng phẫu thuật: không có hiệu quả
Đo lường hiệu suất khoa học
Đánh giá đúng tầm quan trọng của ung thư vú 
Đại dịch H1N1
Đại dịch và đại dịch ảo
Đại dịch đã đến ?
Đạo văn trong hoạt động khoa học
Đậu nành và sức khỏe: đâu là thực và đâu là giả
Đậu nành và sức khỏe: đâu là thực và đâu là giả
Đằng sau những con số hàm lượng đạm trong sữa
Đế quốc Trà
Đề bạt các chức danh khoa bảng: vài kinh nghiệm từ Úc
Đọc lại 12 điều y đức của Việt Nam
Đồi điều về sữa nhiễm melamine
Đừng quên melamine trong các thực phẩm khác!
Ước vọng 200 ?
“Kỹ năng mềm” cho nhà khoa học
“Sẽ” và “có thể”


Trang nhiều tác giả
Trang riêng của Lê Ngọc Dũng
Trang riêng của Lương Lễ Hoàng
Trang riêng của Nguyễn Bảo Trung
Trang riêng của Nguyễn Hoài Nam
Trang riêng của Nguyễn Hữu Đức
Trang riêng của Nguyễn Văn Tuấn
Trang riêng của Nguyễn Ý Đức
Trang riêng của Nguyễn Đình Nguyên
Trang riêng của Phan Xuân Trung
Trang riêng của Đỗ Hồng Ngọc
Trang riêng của Đỗ Minh Tuấn