NGUYỄN VĂN TUẤN

Mỡ trắng, mỡ nâu

Nguyễn Văn Tuấn

Lịch sử y học có nhiều giả định và giả thuyết tồn tại rất lâu và chỉ bị “đánh đổ” khi có bằng chứng khoa học mới.  Một trong những giả thuyết đó là ở người mỡ nâu chỉ hiện diện ở trẻ sơ sinh chứ không có trong cơ thể người trưởng thành.  Tuy nhiên, 3 nghiên cứu mới công bố cho thấy giả thuyết đó sai.  Ba công trình nghiên cứu phát hiện mỡ nâu trong cơ thể có khả năng đốt cháy năng lượng và giảm trọng lượng cơ thể.  Phát hiện này mở ra một cánh cửa mới trong việc phòng chống béo phì.

            Béo phì được định nghĩa là tình trạng khi trọng lượng cơ thể tăng cao đến mức độ có thể gây tác hại cho sức khỏe.  Trọng lượng cơ thể bao gồm hai thành phần chính: lượng mỡ (fat mass) và lượng nạc (lean mass).  Đứng trên quan điểm bệnh lí, tăng lượng mỡ là điều đáng quan tâm, vì người có lượng mỡ càng cao thì nguy cơ mắc bệnh tim mạch, tiểu đường và tử vong càng cao. 

            Trọng lượng cơ thể chúng ta là kết quả của quá trình tiếp thu và tiêu thụ năng lượng.  Khi năng lượng tiếp thu nhiều hơn năng lượng tiêu thụ, trọng lượng cơ thể gia tăng.  Do đó, tìm hiểu yếu tố nào dẫn đến sự mất quân bình giữa tiếp thu và tiêu thụ là một trong những định hướng nghiên cứu quan trọng của giới y học.

            Ít người biết rằng có hai loại mỡ trong cơ thể động vật (kể cả người): mỡ trắng và mỡ nâu.  Mỡ trắng trữ năng lượng dưới dạng lipid (cụ thể là dưới dạng triglyceride) và sản xuất các hormone.  Mỡ nâu đốt cháy năng lượng và tỏa nhiệt.  Do đó, đứng trên quan điểm giảm cân, mỡ nâu là một loại “mỡ tốt” và mỡ trắng là “mỡ xấu”.   

Hình chụp cắt ngang một mô mỡ từ chuột. Những đớm màu trắng là các tế bào mỡ trắng. Những đớm nhỏ mài nâu chính là tế bào mỡ nâu.  Mỡ nâu có chức năng đốt cháy năng lượng từ mỡ trắng.

 

            Ở chuột, mỡ nâu được tích tụ trên lưng, và lượng mỡ này tồn tại trong suốt quãng đời của chuột.  Ở người, trong một thời gian dài, giới y học nghĩ rằng mỡ nâu cũng tích tụ trên lưng, nhưng chỉ tồn tại lúc mới ra đời, và “biến mất” trong thời gian trưởng thành hay về già.  Đó cũng là một trong những giải thích tại sao phụ nữ sau mãn kinh có xu hướng tăng trọng lượng cơ thể.  Nhưng 3 nghiên cứu mới đây cho thấy giả thuyết trên hoàn toàn sai.  Ba công trình nghiên cứu đăng trên tập san New England Journal of Medicine cho thấy rõ ràng và nhất quán rằng mỡ nâu vẫn “ở” trong cơ thể chúng ta, và điều này mở ra một tia hi vọng trong việc kiểm soát béo phì.

            Trong nghiên cứu thứ nhất, các nhà nghiên cứu thuộc Đại học Harvard phân tích 1972 scan, và phát hiện mỡ nâu ở 7.5% nữ và 3% nam.  Mỡ nâu thường hay thấy ở nam giới dưới 50 tuổi, hay ở những người không béo phì.  Ngược lại, những người có lượng mỡ và trọng lượng càng cao thì lượng mỡ nâu càng thấp.  Ở người, mỡ nâu thường hay thấy ở phía sau cổ, và chỉ khi nào dùng PET-CT scan mới thấy rõ ràng hơn.

            Một nghiên cứu khác ở Hà Lan trên 25 đàn ông khỏe mạnh được cho ở trong môi trường 16°C và 22°C để xác định kích hoạt của tế bào mỡ nâu.  Ở môi trường lạnh (tức 16°C) mỡ nâu tìm thấy trong 23 người, nhưng ở môi trường 22°C thì không phát hiện mỡ nâu.  Người có trọng lượng thấp có nhiều mỡ nâu hơn người có trọng lượng cao.  Quan sát này cho thấy mỡ nâu được kích hoạt trong môi trường lạnh hơn là môi trường nhiệt độ bình thường hay nóng.  

Hình PET-CT scan bên trái cho thấy rất ít mở nâu xuất hiện trong cơ thể một thanh niên khi ở trong điều kiện nhiệt độ 22oC.  Nhưng khi người thanh niên đó được ở trong môi trường 16oC sau 1 giờ thì mở nâu kích hoạt rất nhiều.  Những đốm đen là mở nâu.  Nguồn: New England Journal of Medicine. PET-CT scan có thể phát hiện mở nâu vì PET (posittron emission tomography, một loại kĩ thuật dùng để thẩm định ung thư) được thiết kế để phát hiện tín hiệu đốt glucose trong tế bào.

            Một nghiên cứu trên chuột cũng cho thấy tế bào mỡ nâu chỉ kích hoạt trong môi trường lạnh.  Một nhóm nghiên cứu khác thuộc Đại học Louisiana cho 41 chuột sống trong môi trường lạnh 5oC 1 tuần, và trong thời gian đó chuột được cho ăn thức ăn chứa nhiều béo.  Họ phát hiện rằng trong thời gian đó các tế bào mỡ nâu được kích hoạt, và hệ quả là các chuột này giảm 14% trọng lượng! 

 

            Các nghiên cứu trên cho thấy tế bào mỡ nâu chỉ kích hoạt trong điều kiện lạnh.  Vậy câu hỏi đặt ra ngược lại là: nếu các tế bào mỡ nâu được làm cho tê liệt (không kích hoạt) thì hệ quả là gì?  Để trả lời câu hỏi này, một nhóm nghiên cứu Thụy Điển nghiên cứu trên một nhóm chuột được tạo ra mà tế bào mỡ nâu hoàn toàn “bất động”, được cho sống trong môi trường lạnh.  Kết quả cho thấy chuột tăng trọng lượng khá nhanh.

 

            Tất cả các nghiên cứu trên đây cho phép chúng ta phác họa một bức tranh về vai trò của mỡ nâu.  Về cấu trúc, mỡ nâu bao gồm rất nhiều mitochondria, và mitochondria hàm chứa sắt, do đó làm cho mỡ có màu nâu đỏ.  Cần nói thêm rằng mitochondria có thể ví von như là những “hãng” năng lượng trong cơ thể.  Mỡ nâu chỉ kích hoạt trong môi trường lạnh, và hiệu quả của mỡ nâu là đốt cháy năng lượng (tức đốt mỡ trắng), dẫn đến giảm trọng lượng hay giảm lượng mỡ trong cơ thể.  Nhưng nếu cơ thể không có mỡ nâu thì sẽ trở nên béo phì dễ dàng hơn là người có mỡ nâu. 

 

            Một người đàn ông không béo phì, với trọng lượng 68 kg, có thể có khoảng 15 kg mỡ, và trong số này có khoảng 60 – 90 gram mỡ nâu.  Nhưng dù chỉ 60 gram mỡ nâu cũng có khả năng đốt cháy 300 đến 500 calorie năng lượng mỗi ngày, và có thể giảm nửa kilogram mỗi tuần. 

 

Những khám phá trên dẫn đến một định hướng quan trọng trong việc chống béo phì là tìm cách “cấy” mỡ nâu (nếu thiếu chất này), hay kích hoạt mỡ nâu (nếu đã có) để đốt cháy năng lượng từ mỡ trắng.  Đây là một hành trình tương đối gay go, nhưng vài thí nghiệm trên chuột cho thấy kết quả khả quan.  Một số công ti dược đang tích cực nghiên cứu bào chế thuốc để kích hoạt mỡ nâu, nhưng cần phải 10 năm nữa thì chúng ta mới biết hiệu quả ra sao.

Tuy những nghiên cứu về mở nâu lóe một tia hi vọng mới trong việc phòng chống béo phì, nhưng chúng ta vẫn không thể chủ quan phó thác mọi chuyện cho mỡ nâu. Cơ thể con người có một hệ thống tự điều chỉnh có thể nói là “diệu kì”, cho nên can thiệp vào một yếu tố rất khó cho ra kết quả tối ưu.  Với béo phì, điều này có nghĩa là không nên quá tùy thuộc vào mỡ nâu để kiểm soát trọng lượng, mà còn phải thường xuyên tập thể dục và kiểm soát chế độ ăn uống lành mạnh. 

 

 

 


200 năm Darwin
Agent Orange: collateral damage
Alexandre Yersin và Việt Nam
Bàn về hiệu quả vắcxin: lâm sàng và kinh tế
Bàn về vấn đề dịch thuật và đánh giá năng suất khoa học
Béo phì ở người Á châu
Béo phì ở trẻ em và virus
Bình luận từ Dr. Yến
Bưởi không gây ung thư vú
Bảo hiểm y tế cộng đồng
Bảo tồn môi sinh: Chiến tranh giữa hai thế giới
Bằng chứng khoa học thay vì lên lớp
Bệnh tả: không để Việt Nam thành Bangladesh thứ hai
Bệnh tật nhìn từ quan điểm của thuyết tiến hóa
Bệnh xơ hóa cơ delta qua y văn thế giới
Bổ sung kẽm và điều trị bệnh tả
Bộ gen trong cây lúa và triển vọng
Bộ Y tế phản ứng chậm với rét đậm
Chiều cao của người Việt
Chiều cao và tổng thống Mĩ
Cholesterol và bệnh Tim
Cholesterol: hung thần hay bạn?
Chuột và... các nhà khoa học
Chính sách y tế cần dựa vào bằng chứng khoa học
Chạy đua vũ khí và … dịch cúm
Chất béo, cholesterol, bệnh tim và statins: xét lại bằng chứng
Chất keo xã hội: hormones
Chất lượng nghiên cứu dịch tễ học và y tế cộng đồng của Việt Nam qua chỉ số H
Chất lượng nghiên cứu khoa học ở Việt Nam qua chỉ số trích dẫn
Chất vấn chuẩn chẩn đoán béo phì
Chế độ ăn uống với nhiều thịt động vật và nguy cơ tử vong
Chủng vi khuẩn tả hiện nay ở nước ta có phải mới xuất hiện?
Cuộc chiến hóa học phi pháp lớn nhất trong lịch sử chiến tranh
Câu chuyện y học: Leptin và béo phì
Có bao nhiêu bác sĩ viết chữ khó đọc
Có nên tập trung vào vi khuẩn E. coli ?
Có thể xảy ra đại dịch cúm gia cầm?
Công cụ đơn giản để chẩn đoán tiểu đường ở người Đông Nam Á
Cúm gia cầm và nhiễu thông tin
Cúm H1N1: biết và chưa biết
Cơ hội để khép lại một chương lịch sử đau lòng
Cần hiểu đúng về Ung thư và nguy cơ ung thư
Cần qui ước đạo đức cho kĩ nghệ thực phẩm
Cần tiêm chủng ngừa bệnh tả vùng có nguy cơ cao
Cần điều tra về chất lượng bệnh viện
Cổ phần hóa bệnh viện công và chất lượng
Cổ phần hóa: chưa phải cách duy nhất
DDT và vấn đề cân đối giữa lợi ích và nguy hiểm
Dinh dưỡng: một nguồn thuốc quí giá
DNA không nói dối, nhưng DNA có thể nói … sai
Dịch cúm gà: hoang mang và sự thật khoa học
Dịch cúm heo và tác hại kinh tế
Dịch tay-chân-miệng
Dịch tả: gọi đúng tên để phòng ngừa
Dựa vào khoa học, đừng dựa vào niềm tin!
E. coli – vài câu hỏi thông thường
Gen và bệnh tật
Ghen tuông dưới cái nhìn của tâm lí y khoa
Gian lận trong nghiên cứu khoa học: áp lực kinh tế và cơ chế bình duyệt
GIÁO DỤC ĐẠI HỌC: KHƠI DẬY VÀ NUÔI DƯỠNG TÍNH HAM HỌC
Giải nobel y học hay sinh lí học 2007 và lợi ích cho người bệnh
Giải Nobel Y sinh học 2008 và những tranh chấp khoa học
Giải Nobel y sinh học 2010 vinh danh người đem niềm vui cho người vô sinh
Giải Nobel y sinh học năm 2005: Một cõi đi về với vi khuẩn
Giải Nobel y sinh học: Nhìn lại quãng đường 100 năm
Giải phẫu ghép mặt và vấn đề y đức
Gout ở xương sống
Gãy xương và tử vong: một vấn nạn y tế cộng đồng
Hiệu quả vắcxin có nghĩa gì?
Hoa vàng mấy độc
Hàm lượng đạm trong sữa “siêu thấp” hay “siêu cao”?
Hóa chất khai hoang trong cuộc chiến Viện Nam: Qui mô và tầm ảnh hưởng
Hướng đi nào để giải quyết vấn đề chất độc da cam ở Việt Nam
Hậu “mắm tôm được minh oan”: bằng chứng khoa học, nhà xí và nghiên cứu
Hệ Thống Học Vị Và Học Hàm Khoa Học Ở Vài Nước Tây Phương
Hợp tác khoa học kiểu nhảy dù - Nguyễn Văn Tuấn
Khi bác sĩ trẻ “khoe” quá nhiều
Khoa học và ngụy khoa học: một vài đặc điểm và khác biệt cần biết
Khoa học, xã hội, và rủi ro
Không thể thành Phù Đổng trong 20 năm!
Khẩu trang và phòng chống cúm A/H1N1
Kiểm định giả thuyết mắm tôm và vi khuẩn tả
Liều lượng melamine bao nhiêu là an toàn?
Lí lịch sinh học của heo và dấu vết văn minh nông nghiệp Đông Nam Á
Lượng giá mạng sống con người
Lợi ích của vitamin D
Miệng nhà quan
Mắm tôm có phải là “thủ phạm” gây bệnh tả? Xét lại bằng chứng khoa học
Mắm tôm và chuyện xin lỗi
Mắm tôm và dịch tả: phân biệt yếu tố nguy cơ và nguyên nhân
Mắm tôm vô tội!
Mắm tôm, nguyên nhân và hệ quả
Mối quan hệ giữa giới y khoa và kĩ nghệ dược
Mối quan hệ giữa giới y khoa và kĩ nghệ dược
Một bệnh hiếm X-linked recessive hypoparathyroidism
Một lần đi phỏng vấn
Một năm nhìn lại
Một phán quyết thiếu cơ sở khoa học
Một vài hiểu lầm tai hại
Một vài ngộ nhận về nghiên cứu khoa học
Một vài vấn đề về qui định chức danh giáo sư ở Việt Nam
Một vụ Madoff trong y khoa: Lại một ngôi sao y khoa rơi rụng!
Mỡ trắng, mỡ nâu
Mỡ  trong máu, huyết áp, và  tiểu đường
Nghiên cứu y học ở Việt Nam: Đặc điểm, thiếu sót, và sai sót
Nghiên cứu y học ở Việt Nam: Đặc điểm, thiếu sót, và sai sót
Nguyên nhân bệnh tiêu chảy
Ngó trên tay điếu thuốc đã lụi dần
Người cao tuổi và sự hạn chế của y khoa
Người ăn chay có mật độ xương như người ăn mặn
Người ăn chay có mật độ xương như người ăn mặn
Nhân chuyện dịch tả nhớ lại John Snow
Nhân câu chuyện điện não đồ xét nghiệm nghiện ma túy:
Nhân năm khỉ_nguồn gốc con người hiện đại
Nhân năm Tý bàn chuyện thí nghiệm trên chuột
Nhìn lại khoa học Việt Nam năm 2008 qua công bố quốc tế
Nhầm lẫn trong y khoa: Khá phổ biến, nhưng ít ai biết!
Những câu hỏi và trả lời về dịch gia cầm
Những sai sót khó tin nhưng có thật
Những sai sót nguy hiểm trong toa thuốc
Những điều khó tin về “Bảy điều khó tin nhất trong y học”
Năm lí do cho mắm tôm “vô tội”
Phán quyết sau cùng: Chất béo không ảnh hưởng đến ung thư và bệnh tim
Phát hiện gien kiểm soát ráy tai: vài bài học về mò kim đáy biển
Phòng chống bệnh phải dựa vào bằng chứng khoa học!
Phòng chống H1N1 bằng rửa tay và khẩu trang: Biện pháp nào hiệu quả hơn?
Qui định cấp giấy phép lái xe dựa vào chiều cao và cân nặng: thiếu cơ sở khoa học và kì thị giới tính
Qui định cấp giấy phép lái xe dựa vào chiều cao: vấn đề giả định và bằng chứng khoa học
Quyền phê phán và trí thức
Quyền được tiếp cận hồ sơ bệnh án
Quản lý chất lượng: Thuốc phòng "tai nạn y khoa"
Rửa tay bằng xà phòng và tiêu chảy
Serotonin có liên quan đến chứng đột tử
Suy dinh dưỡng ở trẻ em: vấn đề của kinh tế
Sàng lọc trẻ sơ sinh trên phạm vi toàn quốc
Tai nạn y khoa trong bệnh viện
Thế nào là một "bài báo khoa học"
Thế nào là “Cơ sở khoa học” ?
Thịt chó là nguyên nhân của bệnh tiêu chảy cấp tính?
Thịt chó và bệnh tả: nguyên nhân và yếu tố nguy cơ
Tiên lượng bệnh Alzheimer bằng protein expression ?
Tiêu chuẩn chất lượng giáo dục đại học
Tiêu chuẩn chẩn đoán béo phì cho người Việt - Nguyễn Văn Tuấn
Tiêu chuẩn chẩn đoán bệnh đái tháo đường (diabetes mellitus)
Tiêu chuẩn đề bạt giáo sư: Có nên căn cứ vào số lượng bài báo ?
Tiêu chảy cấp tính và bệnh tả: Định danh cho đúng
Truy tìm ung thư bằng mammography từ tuổi 50
Truyền thông và khoa học: Qui ước Ingelfinger
Truyền thông và y tế
Truyền thông, khoa học và … doanh nghiệp
Trà xanh và sức khỏe
Trách nhiệm và nhân đạo trong vấn đề chất độc da cam
Trái chanh và phòng chống bệnh tả
Trả lời những câu hỏi liên quan đến loãng xương
Trọng lượng cơ thể và tử vong ở người Trung Quốc: Ý nghĩa về việc xác định tiêu chuẩn chẩn đoán béo phì
Tuổi thọ của người dân giảm 10 năm ?
Tác dụng Placebo trong y học: Tâm lí và ý nghĩa
Tình yêu, sắc đẹp nhìn dưới quan điểm di truyền học
Tín hiệu môi trường từ những “làng ung thư”
Tính khoa học và minh bạch đằng sau xét nghiệm doping
Tại sao không phát biểu về nguyên nhân và hệ quả ?
Tại sao uống rượu gây đỏ mặt và nguy cơ ung thư thực quản
Tạo sinh vô tính và cái chết của Thượng đế
Tạo sinh vô tính và vấn đề sinh đạo đức
Tản mạn về SARS
Tỉ lệ tử vong do cúm heo là bao nhiêu ?
Tự trị, chất lượng và y đức thay vì cổ phần hóa bệnh viện công
Ung thư vú và vấn đề thông tin y khoa
Uống bia hấp dẫn muỗi
Vaccine phòng chống AIDS hiệu quả đến đâu ?
Vaccine phòng chống cúm A/H1N1
Vi khuẩn gây tiêu chảy và ý nghĩa tiêm chủng
Vi khuẩn tả trong chó ?
Viết văn có thể chữa nhiều loại bệnh
Viết văn và trị liệu
Việc ta, ta cứ làm!
Vài nhận xét về 12 điều lệ y đức của Việt Nam
Vài thông tin cần biết về các chương trình truy tìm ung thư vú
Vài đóng góp quan trọng của người Việt khoa học thống kê
Văn hóa khoa học
Văn hóa tranh luận và vấn đề ngụy biện
Vấn đề sinh tố: kẽm và đồng
Vấn đề truy tìm ung thư phổi và hiệu quả 
Vấn đề y đức trong nghiên cứu tế bào mầm (stem cells)
Vấn đề đo lường melamine
Vấn đề đào tạo tiến sĩ: kinh nghiệm từ Australia
Vắc-xin phòng chống ung thư cổ tử cung
Vắcxin ngừa viêm gan B: cẩn thận với “nhiễu thông tin”
Vắcxin ngừa viêm gan B: kinh nghiệm từ nước ngoài
Vắcxin phòng bệnh sởi - quai bị - Rubella: lợi và hại
Vắcxin phòng chống ung thư cổ tử cung: hiệu quả lâm sàng và kinh tế
Vắcxin phòng ngừa bệnh tả: rất cần thiết
Về chấn chỉnh đào tạo tiến sĩ: Công bố bài báo khoa học là một thách thức lớn ?
Về học vị tiến sĩ
Về một sự hiểu lầm thuật ngữ "prospective"
Về phản ứng phụ của bisphosphonates liên quan đến hoại tử xương hàm và rung nhĩ
Vệ sinh như là một loại hàng hóa
Vị thế của nền khoa học Việt Nam
Xung quang xì căng đan về nghiên cứu tế bào mầm
Xã hội hóa và an toàn thực phẩm
Xếp hạng đại học: cần minh bạch hóa phương pháp
Y học hiện đại và những hứa hẹn
Y học thực chứng: vài nét khái quát
Y Khoa và những nhầm lẫn chết người
Y tế dự phòng: nền tảng của y khoa hiện đại
Y đức và nghiên cứu y học
Ói mửa, cao huyết áp và hôn mê
Ăn chay như là một trị liệu
Ăn chay và loãng xương
Điều trị bệnh dựa vào màu da ?
Điều trị đau dây thần kinh tọa bằng phẫu thuật: không có hiệu quả
Đo lường hiệu suất khoa học
Đánh giá đúng tầm quan trọng của ung thư vú 
Đại dịch H1N1
Đại dịch và đại dịch ảo
Đại dịch đã đến ?
Đạo văn trong hoạt động khoa học
Đậu nành và sức khỏe: đâu là thực và đâu là giả
Đậu nành và sức khỏe: đâu là thực và đâu là giả
Đằng sau những con số hàm lượng đạm trong sữa
Đế quốc Trà
Đề bạt các chức danh khoa bảng: vài kinh nghiệm từ Úc
Đọc lại 12 điều y đức của Việt Nam
Đồi điều về sữa nhiễm melamine
Đừng quên melamine trong các thực phẩm khác!
Ước vọng 200 ?
“Kỹ năng mềm” cho nhà khoa học
“Sẽ” và “có thể”


Trang nhiều tác giả
Trang riêng của Lê Ngọc Dũng
Trang riêng của Lương Lễ Hoàng
Trang riêng của Nguyễn Bảo Trung
Trang riêng của Nguyễn Hoài Nam
Trang riêng của Nguyễn Hữu Đức
Trang riêng của Nguyễn Văn Tuấn
Trang riêng của Nguyễn Ý Đức
Trang riêng của Nguyễn Đình Nguyên
Trang riêng của Phan Xuân Trung
Trang riêng của Đỗ Hồng Ngọc
Trang riêng của Đỗ Minh Tuấn