“Kỹ năng mềm” cho nhà khoa học
Phạm Hiệp (thực hiện) [Bản tin ĐHQG
Hà Nội - số 216, 2009)
http://www.bulletin.vnu.edu.vn/btdhqghn/Vietnamese/C1483/C1636
/2009/03/N24427/?1
Kỹ năng mềm là khái niệm còn rất mới mẻ
đối với giới khoa học Việt Nam. Nhà khoa học sẽ “chuyên nghiệp”
và “thành công” hơn khi họ được trang bị kỹ năng này. Để hiểu rõ
hơn về khia niệm này, Bản tin ĐHQGHN đã có cuộc trao đổi với GS.
Nguyễn Văn Tuấn - Nghiên cứu viên cao cấp Viện Nghiên cứu Y khoa
Garvan (Úc).
Trong tháng 12 vừa qua, ông có tham gia dạy một số
khóa học liên quan đến các kĩ năng trình bày, viết báo cáo...
cho các bác sỹ, dược sỹ tại Hà Nội. Ông có thể nói rõ hơn về
khóa học này ?
Thật ra, đó chỉ là những buổi seminar về cách viết và công bố
một bài báo khoa học trên các tập san y học quốc tế, và cách
trình bày một nghiên cứu khoa học trong các diễn đàn khoa học
quốc tế. Những chủ đề này nằm trong một loạt bài tôi đã viết từ
trên chục năm qua, và nay có dịp trình bày trước các đồng nghiệp
trong nước.
Trong bài nói chuyện về cách viết bài báo khoa học, tôi nói về
qui trình vận hành của một tập san khoa học, đằng sau quyết định
đăng hay không một công trình nghiên cứu, cách cấu trúc một bài
báo khoa học và trình bày dữ liệu như biểu đồ và số liệu sao cho
thuyết phục, logic, và sau cùng là cách viết cũng như dùng chữ
cho chính xác và hay.
Trong bài nói chuyện về cách trình bày một nghiên cứu khoa học,
tôi nói về những nguyên tắc cơ bản trong việc chuyển giao thông
tin khoa học đến người nghe một cách hữu hiệu, những nguyên tắc
về việc chọn màu sắc sao cho thích hợp với từng loại diễn đàn,
cách chọn chữ và thiết kế biểu đồ cũng như bảng số liệu sao cho
gọn nhẹ nhưng nói lên được thông điệp mình muốn chuyển giao đến
người nghe.
Nói tóm lại tôi chỉ nói về những kĩ năng cơ bản của một nhà khoa
học. Vì có cơ duyên phục vụ trong ban biên tập của nhiều tập san
khoa học trên thế giới, nên tôi hiểu được cách vận hành và làm
việc của các tập san này, vì thế tôi có thể trình bày những vấn
đề mà người nước ngoài họ không thể chia sẻ với các đồng nghiệp
trong nước.
Ðằng sau quyết định đăng một bài báo bao gồm những
gì?
Khi bản thảo bài báo khoa học được nộp cho một tập san, tổng
biên tập (editor-in-chief) đọc qua phần tóm lược (abstract), và
dựa vào chuyên ngành của bài báo, sẽ giao cho một phó biên tập
(associate editor) phụ trách, và người này chính là người có
thẩm quyền quyết định “số phận” của bài báo. Thông thường, phó
biên tập đọc qua bài báo, rồi quyết định xem có xứng đáng để gửi
đi phản biện (peer review). Nếu bài báo có tiềm năng và xứng
đáng, phó biên tập sẽ chọn 2 - 3 chuyên gia phản biện (phần lớn
những chuyên gia này nằm trong ban biên tập của tập san). Sau 4
tuần (thời gian trung bình), các chuyên gia này gửi báo cáo phản
biện cho phó biên tập. Nếu có một chuyên gia bình duyệt đề nghị
từ chối bài báo thì thông thường phó biên tập sẽ gửi thư cho tác
giả biết rằng tập san từ chối công bố bài báo.
Nếu tất cả chuyên gia phản biện không từ chối và yêu cầu sửa
đổi, thì phó biên tập sẽ chuyển các phản biện này cho tác giả để
chỉnh sửa (kể cả làm thêm thí nghiệm, thêm phân tích…). Sau khi
chỉnh sửa, tác giả gửi lại bản thảo mới (và kèm theo những trả
lời cho các câu hỏi mà chuyên gia phản biện nêu) cho phó biên
tập. Nếu phó biên tập thấy tác giả trả lời đầy đủ, thì sẽ quyết
định đăng hay không đăng. Nếu phó biên tập thấy tác giả chưa trả
lời đầy đủ, thì tất cả hồ sơ sẽ chuyển cho các chuyên gia phản
biện một lần nữa, và chu trình bình duyệt lại bắt đầu. Thông
thường, một bài báo phải qua 2 - 3 lần phản biện, nhưng cũng có
trường hợp mà tác giả phải kinh qua 6 lần phản biện. Một khi bài
báo đã được chấp nhận hay không chấp nhận cho công bố, phó biên
tập sẽ thông báo quyết định của mình cho tổng biên tập biết.
Tính trung bình, thời gian từ lúc nộp bài đến khi quyết định cho
công bố tốn khoảng 6 tháng. Nhưng cũng có khi thời gian kéo dài
cả 1 hay 2 năm. Cố nhiên, trong các trường hợp bài báo được đánh
giá là không xứng đáng ngay thì lúc ban đầu thì thời gian đi đến
quyết định chỉ trong vòng 1 tuần.
Như vậy nhà khoa học ngoài khả năng chuyên môn cần
phải có những kiến thức và kĩ năng nào khác?
Bạn đang nói đến kĩ năng mềm phải không? Theo tôi thì có 2 kĩ
năng mềm mà các nhà khoa học Việt Nam cần phải cải tiến và học
hỏi, đó là: Kĩ năng thông tin và ngoại giao. Kĩ năng thông tin ở
đây là khả năng truyền đạt thông tin khoa học đến đồng nghiệp
trong và ngoài nước qua viết và nói chuyện. Viết trên các tập
san khoa học quốc tế đòi hỏi những kĩ năng về tiếng Anh (vì phần
lớn tập san khoa học ngày nay sử dụng tiếng Anh) và cách biện
luận, mà các đồng nghiệp trong nước đều rất yếu. Ðiều này thì có
thể hiểu được vì tiếng Anh không phải là tiếng mẹ đẻ và theo
kinh nghiệm của tôi, ngay cả những người đã từng đi du học ở các
nước nói tiếng Anh cũng chưa thể viết hoàn chỉnh một bài báo
khoa học vì làm được việc này đòi hỏi một thời gian “cọ sát” khá
lâu mới trở thành chuyên nghiệp được. Ngay cả những nghiên cứu
sinh mà tiếng Anh là tiếng mẹ đẻ cũng khó có thể viết một bài
báo khoa học một cách chỉn chu.
Nói chuyện trong các hội nghị khoa học đòi hỏi những kĩ năng
chẳng những về ngôn ngữ mà còn nghệ thuật. Tôi đã thấy nhiều
đồng nghiệp trong nước nói chuyện trong các hội nghị khoa học
quốc tế, và họ phạm phải những lỗi lầm hết sức cơ bản như chọn
màu sắc không thích hợp, chọn font chữ sai, sử dụng quá nhiều
hoạt hình màu mè, diễn giải không thông và logic, cách nói quá
đơn điệu, không biết cách trả lời người chất vấn, v.v.… Có người
nhầm lẫn giữa trả lời chất vấn và lên lớp, nên biến bài nói
chuyện thành một buổi trao đổi thiếu tính chuyên nghiệp (nếu
không muốn nói là khôi hài)!
Cộng đồng khoa học, cũng như xã hội, là một tập thể với những
quan hệ đa chiều. Nhà khoa học phải phụ thuộc lẫn nhau để tồn
tại và phát triển. Trong mối quan hệ đa chiều như thế, kĩ năng
ngoại giao rất quan trọng trong việc quảng bá công trình nghiên
cứu của mình.
Có nhiều nhà khoa học trong nước nghĩ rằng họ công bố kết quả
nghiên cứu và thế là xong. Nhưng khoa học ngày nay cạnh tranh ác
liệt, cạnh tranh để được ghi nhận. Trong bất cứ lĩnh vực nghiên
cứu nào cũng có nhiều người cùng làm, và việc tương tác với đồng
nghiệp để quảng bá nghiên cứu của mình là một kĩ năng rất cần
thiết để thành đạt trong khoa học ngày nay. Tôi thấy đây cũng là
một điểm yếu nhất của nhiều đồng nghiệp trong nước vì họ hầu như
chẳng có ý niệm gì về lobby trong khoa học.
Lobby trong khoa học là một khái niệm còn khá mới mẻ
đối với giới khoa học Việt Nam. Ông có thể nói rõ hơn?
Nói ra ý này tôi cũng nghĩ làm nhiều đồng nghiệp ngạc nhiên, vì
ít ai nghĩ rằng trong hoạt động khoa học mà cũng có lobby và vận
động. Chúng ta có câu "hữu xạ tự nhiên hương", với hàm ý nói nếu
công trình nghiên cứu của mình tốt thì đồng nghiệp sẽ trích dẫn
và ghi nhận. Nhưng rất tiếc là ngày nay lí tưởng đó khó tồn tại
trong thực tế khoa học, ít ra là trong ngành y học mà tôi đang
làm. Trong khoa học, luôn có nhiều nhóm cùng làm nghiên cứu về
một đề tài, nhưng tại sao có những nhà khoa học hay công trình
khoa học được ghi nhận và nổi tiếng hơn các đồng nghiệp và công
trình khác. Ngoài lí do về chất lượng và ý nghĩa của nghiên cứu,
tôi nghiệm ra một phần của câu trả lời là kĩ năng ngoại giao của
nhà khoa học. Do đó, khi nói lobby ở đây, tôi muốn nói đến những
kĩ năng làm cho công trình nghiên cứu của mình được ghi nhận,
được đề cập và trích dẫn, và qua đó gây ảnh hưởng trong chuyên
ngành.
Muốn cho công trình của mình được nhiều người biết đến thì nhà
khoa học phải biết cách “chào hàng” ý tưởng và công trình của
mình trong các diễn đàn khoa học, phải biết tận dụng tất cả cơ
hội (kể cả tranh thủ các tập san) để quảng bá nghiên cứu của
mình đến cộng đồng khoa học. Những bài báo tổng quan (review),
bình luận (commentary), chương sách… là những cơ hội lí tưởng để
giới thiệu những công trình nghiên cứu của mình đến đồng nghiệp
quốc tế.
Nhưng để được mời viết những tổng quan hay bình luận thì cá nhân
nhà khoa học phải có một vị thế uy tín trong môi trường khoa học
và để tạo ra một vị thế đó, ngoài thành tích khoa học ra, cần
phải có kĩ năng ngoại giao. Nói cách khác, nhà khoa học phải
biết và tranh thủ ủng hộ của các nhà khoa học đàn anh, các nhóm
nghiên cứu có tiếng trên thế giới để được nằm trong quĩ đạo của
những người “elite” (tinh tú, xuất sắc - Bản tin ÐHQGHN).
Ông đánh giá kĩ năng của các nhà khoa học Việt Nam
như thế nào?
Theo tôi thì câu trả lời là: Chưa. Các đại học nước ta chưa
chuẩn bị tốt cho nghiên cứu sinh về các kĩ năng thông tin. Tôi
đã dự rất nhiều hội nghị, hội thảo, khoa học trong nước và có
thể nói rằng hầu hết các nghiên cứu sinh, thậm chí cả các giáo
sư, thiếu kinh nghiệm trình bày một nghiên cứu khoa học cho mạch
lạc, chưa am hiểu những qui ước trong việc soạn thảo powerpoint
và nhất là chưa nói tiếng Anh thông thạo. Như tôi nói, tiếng Anh
thì có thể thông cảm được vì nó không phải là tiếng mẹ đẻ, nên
nếu có vài sai sót thì chắc chẳng ai phàn nàn. Nhưng một nhà
khoa học cấp giáo sư mà trình bày một nghiên cứu quá sơ sài, quá
cẩu thả, và bất chấp qui ước khoa học thì khó mà chấp nhận được.
Trong thực tế, tôi đã thấy (và báo chí cũng có lần phản ảnh) về
các nhà khoa học hàng đầu nước ta khi nói chuyện trong hội nghị
quốc tế làm cho chủ tọa cứ lắc đầu. Do đó, tôi nghĩ những kĩ
năng cơ bản như kĩ năng thông tin cần phải được đưa vào chương
trình học bắt buộc (compulsory subject) cho sinh viên đại học.
Trong khi chưa có những chương trình giảng dạy như thế, tôi nghĩ
chúng ta có thể tổ chức nhiều khóa học theo dạng workshop cho
các đồng nghiệp trong nước để chúng ta nhanh chóng làm quen với
“luật chơi” khoa học ở ngoài.
Thế còn ở Ðại học New South Wales nơi ông đang làm
việc, người ta tổ chức bồi dưỡng những kĩ năng này cho các nhà
khoa học như thế nào?
Ở Ðại học New South Wales và Viện Garvan, chúng tôi có những
khóa học chỉ chuyên dạy về cách viết một bài báo khoa học hay
đơn xin tài trợ, cách viết một đơn xin học bổng, cách trình bày
một nghiên cứu khoa học cho nghiên cứu sinh. Tôi cũng từng tham
gia giảng dạy và soạn tài liệu về cách viết một bài báo khoa
học, nên qua đó cũng có thể chia sẻ với các đồng nghiệp trong
nước. Như vậy, muốn tiếp cận trình độ quốc tế, các nhà khoa học
và các nhà quản lý đại học cần phải quan tâm đặc biệt đến kĩ
năng mềm.
Theo ông, các đại học Việt Nam cần phải làm thế nào
để các nhà khoa học có thể học hoặc tự học để nâng cao những kĩ
năng này?
Ông bà ta có câu “Không thầy đố mày làm nên”. Nói đến “kĩ năng”
là nói đến thực hành, và thực hành thì khó mà tự học được. Những
bài giảng, kể cả bài giảng về cách viết bài báo khoa học, tràn
ngập trên internet, nhưng không phải có những bài giảng đó là có
thể viết một bài báo khoa học được. Bất cứ kĩ năng nào cũng cần
phải học và tiếp cận với những người có kinh nghiệm.
Qua làm việc thực tế với các bạn trong nước, tôi thấy cái khó
khăn lớn nhất là các đại học Việt Nam chúng ta thiếu những người
có kinh nghiệm về các kĩ năng mềm này, đơn giản vì nhiều giáo sư
và nhà khoa học nước ta chưa từng công bố các nghiên cứu khoa
học trên các tập san quốc tế. Tuy ngày nay các đại học nước ta
cũng có một số nhà khoa học được đào tạo từ nước ngoài, nhưng
khả năng độc lập mà họ có thể công bố một công trình nghiên cứu
trên các tập san quốc tế vẫn còn rất hạn chế. Do đó, chỉ có một
cách hữu hiệu nhất là mời các chuyên gia nước ngoài về trực tiếp
giúp trang bị các kĩ năng mềm này cho các nhà khoa học trong
nước.
Một kinh nghiệm mà tôi thấy cần học từ các nước láng giềng như
Thái Lan và Nhật là ở một số đại học lớn tại các nước này, người
ta có hẳn một hay hai người ngoại quốc nói tiếng Anh chuyên làm
nghề biên tập khoa học (scientific editor) cho trường. Khi nhà
khoa học soạn xong một bản thảo, họ trực tiếp làm việc với các
chuyên gia này để hoàn chỉnh bản thảo trước khi gửi đi nộp cho
một tập san khoa học. Tôi thấy đây cũng là một mô hình thực tế
có thể giúp nâng cao sự có mặt của khoa học Việt Nam trên trường
quốc tế. Cộng đồng khoa học, cũng như xã hội, là một tập thể với
những quan hệ đa chiều. Nhà khoa học phải phụ thuộc lẫn nhau để
tồn tại và phát triển. Trong mối quan hệ đa chiều như thế, kĩ
năng ngoại giao rất quan trọng trong việc quảng bá công trình
nghiên cứu của mình.
===
Một số nguyên tắc khi đặt tựa đề cho bài báo khoa học
1. Nên cố gắng đặt tựa đề với một thông điệp mới. Làm được như
thế rất dễ gây sự chú ý của người đọc. Ví dụ: “A novel
relationship between osteocalcin and diabetes mellitus”, ở đây
chữ novel có tác dụng gợi ra một cái mới và làm cho người đọc
thấy thích thú.
2. Không nên viết tựa đề theo kiểu phát biểu (statement). Khoa
học không có gì là bất biến và “sự thật” hôm nay có thể sai
trong tương lai. Do đó những tựa đề như “Smoking causes cancer”
nó chẳng những cho thấy sự ấu trĩ hay ngây thơ trong khoa học
của tác giả mà còn làm cho người đọc cảm thấy rất khó chịu.
3. Không bao giờ sử dụng viết tắt trong tựa đề bài báo. Mỗi công
trình nghiên cứu thường tập trung vào một vấn đề chuyên sâu nào
đó, và nếu chúng ta sử dụng viết tắt thì chỉ những người trong
ngành mới hiểu, còn người ngoài ngành không hiểu và đó là một
thiệt thòi cho nghiên cứu của mình.
4. Không nên viết tựa đề theo kiểu nghịch lí. Những tựa đề
nghịch lí là “Yếu A ảnh hưởng xấu đến X, nhưng tác động tốt đến
Y”. Những tựa đề kiểu này có thể làm cho người đọc khó chịu, và
có khi làm lẫn lộn vấn đề của nghiên cứu.
5. Tựa đề không nên quá dài hay nhiều chữ. Tựa đề có nhiều chữ
làm khó đọc và làm cho người đọc… dễ quên. Thông thường, tác giả
nên cố gắng đặt tựa đề dưới 20 chữ. Có nhiều bài báo mà tựa đề
có khi chỉ một chữ!
Một số nguyên tắc khi trình bày Power Point báo cáo khoa
học
1. Nên dùng font chữ không có chân và Sans Serif như Arial hay
Tahoma để khán giả dễ đọc. Những font chữ có chân như Times New
Roman hay Courier làm cho khán giả tốn nhiều thời gian hơn để
theo dõi.
2. Nên dùng cỡ chữ từ 18 trở lên, vì chữ nhỏ hơn làm cho người
có tuổi khó đọc, còn chữ quá lớn thì tốn nhiều không gian.
3. Tránh viết toàn bộ bằng chữ in hoa vì rất khó đọc, và gây ấn
tượng là diễn giả đang la hét!
4. Nên chọn chữ tối trên nền sáng cho giảng dạy hay nói chuyện
trong giảng đường nhỏ.
5. Nên chọn chữ sáng trên nền tối cho các báo cáo khoa học và
trong các giảng đường rộng. Tránh chữ màu xanh lá cây trên nền
màu đỏ vì dễ gây "ngộ độc màu" cho người theo dõi.
6. Không nên cho âm thanh chạy theo chữ. Không nên sử dụng hoạt
hình quá nhiều, vì nó gây ấn tượng diễn giải là… trẻ con.
7. Không nên nhồi nhét quá nhiều thông tin và hình ảnh trong một
slide, vì nó làm giảm sự chú ý và gây lẫn lộn cho diễn giả.
8. Không nên đọc slide! Ðọc slide gây ấn tượng “trả bài” và làm
cho người nghe không có hứng thú theo dõi.
Một số yếu tố làm cho người nghe chán
Kết quả nghiên cứu trên 159 khán giả về những yếu tố làm cho
người nghe cảm thấy chán và sao lãng vấn đề.
1. Diễn giả đọc slide (60%)
2. Chữ quá nhỏ (51%)
3. Câu dài và không có gạch đầu dòng (48%)
4. Chọn màu khó đọc (37%)
5. Chữ chạy lòng vòng, hoạt cảnh nhiều (25%)
6. Dùng âm thanh đệm vào chữ (22%)
7. Biểu đồ, hình minh hoạ quá phức tạp (22%)