NGUYỄN VĂN TUẤN

Tiên lượng bệnh Alzheimer bằng protein expression ?

Nguyễn Văn Tuấn

Một bạn đọc ykhoanet.com gửi email đến tôi hỏi ý kiến về một bản tin trên Vietnamnet nói về một “khám phá” thuật tiên lượng ai sẽ mắc hay không mắc bệnh Alzheimer [1].  Thấy đề tài thú vị nên tôi cũng mượn câu hỏi để bàn ngắn gọn về nghiên cứu đáng chú ý này.  Xin nói ngay rằng tôi không phải là một chuyên gia về thần kinh học; tất cả những ý kiến sau đây chỉ là ý kiến cá nhân và đứng trên quan điểm lâm sàng dịch tễ học và phương pháp học. 

Phương pháp tiên lượng bệnh (prognosis) bằng công nghệ sinh học ra đời từ khi kĩ thuật microarray ra đời trên dưới 10 năm.  Kĩ thuật này có thể phân tích hàng chục, thậm chí hàng trăm ngàn, và nay là hàng triệu markers của các gien một lượt.  Người ta kì vọng rằng qua phân tích “gene expression” (tạm dịch là biểu thị gien) y học có thể tiên đoán chính xác ai sẽ (hay đang) mắc bệnh.  Cha đẻ của kĩ thuật này tuyên bố trong một cuốn sách rằng: “Tất cả bệnh tật đều có thể nghiên cứu qua phân tích gien và mục tiêu tối hậu của dự án này là phát triển các phương pháp điều trị dứt bệnh cho mỗi con người trên hành tinh này vào năm 2050”  [2].

            Kể từ khi kĩ thuật microarray ra đời, đã có hơn 200 công trình nghiên cứu tiên đoán nhiều bệnh, nhưng cho đến nay, chưa một công trình nào có thể đưa vào ứng dụng lâm sàng.  Nói ngắn gọn, bệnh Alzheimer là bệnh mất trí nhớ.  Người bệnh thường không nhớ việc làm của mình hay sự việc chung quanh, thậm chí không nhớ tên tuổi mình, và cũng rất khó khăn tiếp nhận thông tin mới.  Cựu tổng thống Mĩ Ronald Reagan từng mắc bệnh Alzheimer một thời gian khá dài trước khi qua đời.  Vấn đề đặt ra là làm sao có thể tiên đoán ai mắc bệnh (hay sẽ mắc bệnh) một cách chính xác để can thiệp sớm.  Vì Alzheimer là bệnh một phần có nguồn gốc từ đột biến gien, và “sản phẩm” của gien là protein, cho nên giả thuyết đặt ra là có thể phân tích biểu thị protein để tiên đoán khả năng mắc bệnh.  Công trình nghiên cứu mà tôi đang đề cập được thực hiện để kiểm định giả thuyết đó.

Tóm lược công trình nghiên cứu

Các nhà nghiên cứu bên Mĩ (Đại học Stanford, California) chọn 85 người mắc bệnh Alzheimer (tuổi trung bình: 76) và 79 người không mắc bệnh (còn gọi là nhóm chứng, (tuổi trung bình: 71).  Mối đối tượng, họ lấy máu và đo lường độ biểu thị (expression level) của 120 proteins mà họ nghĩ là có liên quan đến bệnh Alzheimer. 

Bước kế tiếp, họ ngẫu nhiên chia các đối tượng thành hai nhóm: nhóm tập huấn (training set) và nhóm kiểm chứng (validation set).  Nhóm tập huấn gồm có 83 đối tượng, trong đó 43 người mắc bệnh Alzheimer và 40 người không mắc bệnh Alzheimer.  Nhóm kiểm chứng có 81 người, gồm 42 người mắc bệnh Alzheimer và 39 người không mắc bệnh Alzheimer. 

Họ bắt đầu phát triển mô hình bằng cách sử dụng số liệu của nhóm tập huấn.  Họ áp dụng một mô hình thống kê rất phức tạp có tên là SAM (Significance Analysis of Microarray) để tìm xem trong số 120 proteins bao nhiêu có ý nghĩa thống kê.  Kết quả cho thấy có 19 proteins mà mức độ biểu hiện khác biệt giữa hai nhóm đối tượng.  Dựa vào 19 proteins họ phát triển một mô hình tiên đoán cũng bằng một mô hình thống kê, và mô hình này có tên là PAM (Predictive Analysis of Microarray) để ước tính nguy cơ mắc bệnh cho từng người.  Họ đối chiếu kết quả tiên đoán với kết quả chẩn đoán lâm sàng để xem mô hình tiên đoán chính xác cỡ nào.  Kết quả đối chiếu này có thể tóm lược trong Bảng 1.  Trong số 43 người mắc bệnh Alzheimer, mô hình tiên đoán đúng 41 người và sai 2 người; do đó, độ nhạy là 95.3%.  Trong số 40 người không mắc bệnh Alzheimer, mô hình tiên đoán đúng 33 người, và độ đặc hiệu là 82.5%.

Bảng 1.  Kết quả phân tích trong nhóm tập huấn (training set)

Tiên đoán từ mô hình 19 proteins

Tình trạng bệnh

Alzheimer

Không Alzheimer

Alzheimer

41

7

Không Alzheimer

2

33

Sensivity = 0.953, Specificity = 0.825

Sau khi đã có một mô hình tiên đoán được phát triển nhóm tập huấn, họ áp dụng mô hình này để tiên đoán cho nhóm kiểm chứng.  Kết quả phân tích trong nhóm kiểm chứng có thể mô tả trong Bảng 2 sau đây.  Trong số 42 người mắc bệnh Alzheimer, mô hình tiên đoán đúng 38 người, và độ nhạy là 90.5%.  Ngược lại, trong số 39 người không mắc bệnh, mô hình tiên đoán đúng 34 người, và độ đặc hiệu là 87.2%.

Bảng 2.  Kết quả phân tích trong nhóm kiểm chứng (validation set)

Tiên đoán từ mô hình 19 proteins

Tình trạng bệnh

Alzheimer

Không Alzheimer

Alzheimer

38

5

Không Alzheimer

4

34

Sensivity = 0.905, Specificity = 0.872

 

Để thẩm định độ tin cậy của mô hình tiên đoán các nhà nghiên cứu phân tích một nhóm đối tượng khác gồm 47 người, những người này có thể xem là tiền-Alzheimer (tức chưa mắc bệnh, nhưng có triệu chứng nhẹ), mà thuật ngữ y khoa gọi là mild cognitive impairment (MCI).  Họ theo dõi những bệnh nhân này từ 2 đến 6 năm.  Trong thời gian theo dõi, có 22 bệnh nhân được chẩn đoán mắc bệnh Alzheimer, 8 người không mắc bệnh (tức tốt hơn lúc ban đầu), và 17 người vẫn không thay đổi, tức vẫn còn trong tình trạng MCI.  Kết quả tiên đoán từ mô hình này (Bảng 3) cho thấy trong số 22 người phát sinh bệnh, mô hình tiên đoán đúng 20 người (độ nhạy = 90.9%).  Trong số 8 người không phát sinh bệnh, mô hình tiên đoán chính xác 100%.  Nhưng trong nhóm 17 người mà bệnh trạng không thay đổi, mô hình tiên đoán 7 người mắc bệnh và 10 người không mắc bệnh. 

 

Bảng 3.  Kết quả phân tích trong nhóm MCI theo dõi trong vòng 6 năm

 

Tiên đoán từ mô hình 19 proteins

Chẩn đoán bệnh trong thời gian theo dõi

Alzheimer

Không Alzheimer

MCI

Alzheimer

20

0

7

Không Alzheimer

2

8

10

Sensivity = 0.909, Specificity = 1.00

Bình luận

            Thông cáo báo chí từ trường Stanford và công ti chuyên phân tích protein, như chúng ta có thể đoán được, đưa ra toàn những tin rất hấp dẫn.  Những bản tin giật gân như “Simple blood test 90% accurate in predicting Alzheimer’s” (Một xét nghiệm máu đơn giản có tiên đoán bệnh Alzheimer chính xác 90%) được truyền đi khắp thế giới, và báo chí trong nước cũng dịch theo với một tiêu đề thi vị hơn như “’Lắng nghe’ tế bào để phát hiện bệnh Alzheimer” (Vietnamnet).  Cần biết rằng Tiến sĩ Tony Wyss-Coray chủ trì công trình nghiên cứu này cũng chính là giám đốc công ti mà ông mới thành lập chuyên phân tích proteins để tiên đoán bệnh Alzheimer.  Do đó, chúng ta cần phải xem xét dữ liệu một cách khách quan, thay vì tin theo những gì các thông cáo báo chí và bản tin truyền thông quốc tế.

            Đánh giá thế nào về công trình nghiên cứu này?  Công trình này có ý nghĩa quan trọng, vì hiện nay việc chẩn đoán bệnh Alzheimer tương đối phức tạp và không mấy chính xác; do đó, nếu quả thật có một mô hình mà chỉ cần lấy mẫu máu, phân tích proteins, và áp dụng mô hình thống kê để tiên đoán chính xác bệnh thì quả là một bước tiến quan trọng trong y học hiện đại.  Có lẽ nhận thức được ý nghĩa này, nên bài báo từ khi nộp cho đến khi được chấp nhận cho công bố chỉ 4 tháng!

            Một điểm son khác mà tôi cần nhấn mạnh ở đây là tính minh bạch của nghiên cứu. Thông thường các bài báo chỉ tóm lược số liệu hay kết quả phân tích cho độc giả, nhưng ở đây các tác giả công bố tất cả các số liệu thô (raw data) và tất cả chi tiết phân tích trên internet để bất cứ ai muốn kiểm tra đều có thể tải về máy và phân tích lại.  Tất cả các mô hình tiên đoán được phát triển bằng ngôn ngữ R (mà tôi đã có dịp giới thiệu trước đây trong một cuốn sách của tôi). Bạn đọc nào muốn biết thêm về mô hình SAM và PAM có thể vào trang nhà của giáo sư Tibshirani (Đại học Stanford) để có thêm thông tin: http://www-stat.stanford.edu/~tibs/SAM hay http://www-stat.stanford.edu/~tibs/PAM.

            Về mặt thiết kế, đây là một nghiên cứu tương đối tiêu biểu về tiên lượng, tức có nhóm tập huấn và nhóm kiểm chứng.  Tuy nhiên, số bệnh nhân còn tương đối thấp (chỉ 164 người), và họ phải chia thành hai nhóm tập huấn và kiểm chứng, nên có thể các thông số ước tính từ nhóm tập huấn không ổn định.

            Về kết quả, có lẽ không ngạc nhiên khi thấy mô hình này tiên đoán tốt khả năng mắc bệnh cho cả hai nhóm tập huấn và kiểm chứng.  Lí do đơn giản là họ phân tích số liệu trên quần thể đối tượng (n = 164), phát hiện 19 proteins, rồi sau đó mới phát triển mô hình để tiên đoán bằng cách ngẫu nhiên chọn 83 người trong quần thể đó, và áp dụng mô hình cho một nhóm gồm 81 người cũng xuất từ quần thể đó.  Do đó, không ngạc nhiên khi mô hình tiên đoán rất tốt. 

Có bằng chứng cho thấy mô hình tiên đoán không chính xác cho khả năng phát bệnh trong tương lai, như số liệu từ bảng 3 gợi ý.  Có lẽ vì mô hình chỉ cho giá trị nhị phân (có hay không có bệnh), mà không tiên lượng được những trường hợp mà tình trạng bệnh không thay đổi.  Nếu gộp nhóm MCI vào nhóm “không Alzheimer”, mô hình có độ đặc hiệu là 72% (18 / 25), và tỉ lệ dương tính giả lên đến 28%.  Một xét nghiệm với tỉ lệ dương tính giả 28% chưa thể xem là có lợi ích trong lâm sàng được.

            Nhưng báo cáo này chỉ mới cung cấp cho chúng ta độ tin cậy của mô hình tiên đoán, chứ chưa cho biết sự hữu dụng của mô hình trong việc chẩn đoán một cá nhân.  Câu hỏi đặt ra là: nếu một người được xét nghiệm máu và mô hình cho ra kết quả dương tính (tức tiên đoán bị Alzheimer), xác suất mà người đó thật sự mắc bệnh Alzheimer là bao nhiêu?  Để trả lời câu hỏi này, chúng ta cần một thông số khác: đó là tỉ lệ mắc bệnh trong cộng đồng.  Theo một nghiên cứu ở Mĩ, ở những người trên 65 tuổi, khoảng 10% người được xem là có triệu chứng bệnh Alzheimer (probable Alzheimer's disease) [3].  Nhưng tỉ lệ này thay đổi tùy theo độ tuổi.  Nếu độ nhạy là 90% và độ đặc hiệu là 87.2% (Bảng 2), và nếu tỉ lệ lưu hành là 10%, thì xác suất một người [với kết quả xét nghiệm dương tính] mắc bệnh Alzheimer là khoảng 44% (bạn đọc có thể kiểm tra con số này của tôi).  Nói cách khác, xác suất vẫn còn khá thấp để có thể khẳng định một chẩn đoán.  Nói tóm lại, ngay cả mô hình này có độ nhạy lên đến 90% thì việc áp dụng cho một cá nhân vẫn chưa khả quan.

            Mô hình này có thể áp dụng trong thực hành lâm sàng hay không?  Theo tôi, câu trả lời là “không”.  Cần nhắc lại rằng mô hình này chưa được kiểm chứng trong một quần thể hoàn toàn độc lập, thì chúng ta vẫn có lí do để hoài nghi sự hữu dụng của nó.  Bài học về chẩn đoán ung thư bằng phân tích gien (microarray) vẫn đáng được nhắc lại ở đây.  Năm 2004, một công trình nghiên cứu phân tích gien để chẩn đoán ung thư được công bố trên tập san New England Journal of Medicine cho thấy phân tích gien có thể tiên đoán chính xác đến 95% các trường hợp ung thư và không ung thư.  Tiếp theo sau là những bình luận từ các chuyên gia, giáo sư, tiến sĩ (nhiều người rất nổi tiếng) cho rằng công nghệ gien có thể cho chúng ta biết mắc bệnh gì, kể cả ung thư, ngay từ lúc mới chào đời!  Một năm sau, khi mô hình đó được kiểm chứng ở một quần thể độc lập khác, mô hình đó tiên đoán ung thư không tốt hơn việc búng một đồng xu (tức không quá 50%)!  Thật vậy, 7 nghiên cứu kiểm chứng trong những năm sau đó cho thấy mô hình hoàn toàn vô dụng [4]. 

Do đó, cho đến khi mô hình tiên đoán bệnh Alzheimer được kiểm chứng trong nhiều (chứ không phải một) quần thể khác, chúng ta vẫn xem phát hiện trong nghiên cứu này mang tính gợi ý, hay ít ra là gợi ý về một phương pháp chẩn đoán hiện đại.  Trong thời đại sinh học phân tử và công nghệ sinh học, những khám phá thật sự có thể đem lại lợi ích cho người bệnh hay cho một quần thể lớn vẫn còn là một thách thức lớn.  Kĩ thuật phân tích gien và phân tích proteins cho đến nay chưa thành công để tiên đoán bất cứ một bệnh phức tạp nào.  Công trình nghiên cứu này [1] thể hiện sự thành công về kĩ thuật, phương pháp, nhưng chưa thể nói là một khám phá hay một thành tựu y học.

Tài liệu tham khảo:

[1]  Ray S, et al. Classification and prediction of clinical Alzheimer diagnosis based on plasma signaling proteins.  Nature Medicine 14/10/2007; doi: 10.1038/nm1653.

[2] Schena M. Microarray analysis.  Nhà xuất bản Wiley-Liss, New York (2003), trang 21.

[3] Evans DA, et al. Prevalence of Alzheimer's disease in a community population of older persons. Higher than previously reported. JAMA 1989; 262; 10/11/1989.

[4] Ioannidis JAP. Microarray and molecular research: noise or discovery.  Lancet 2005; 365:454-5.

TB.  Cũng nhân dịp này xin trả lời chung các bạn hỏi về trang web nguyenvantuan.com của tôi.  Trang web đó, chẳng hiểu lí do kĩ thuật gì, đã không còn vận hành được nữa.  Các anh trong ykhoa.net đang cố gắng phục hồi, nhưng chắc cần nhiều thời gian, vì bài vở thì tôi chẳng biết chúng đang ở đâu.  Thôi thì tôi mời các bạn thử ghé qua trang blog của tôi để trao đổi thêm.  Xin nói trước rằng đây là trang blog, chứ không phải website, nên cách tôi “nói” trong đó không mang tính nghiêm nghị như trong website.  Mấy vụ ồn ào về blog gần đây làm tôi cũng ngại lắm, nhưng các bạn ykhoa.net và đồng nghiệp thì tôi tin là sẽ không có những câu chữ trong các trang blog của giới phóng viên mà mới nhìn qua thấy rất khó đọc. Địa chỉ blog: http://tuanvannguyen.blogspot.com

 


200 năm Darwin
Agent Orange: collateral damage
Alexandre Yersin và Việt Nam
Bàn về hiệu quả vắcxin: lâm sàng và kinh tế
Bàn về vấn đề dịch thuật và đánh giá năng suất khoa học
Béo phì ở người Á châu
Béo phì ở trẻ em và virus
Bình luận từ Dr. Yến
Bưởi không gây ung thư vú
Bảo hiểm y tế cộng đồng
Bảo tồn môi sinh: Chiến tranh giữa hai thế giới
Bằng chứng khoa học thay vì lên lớp
Bệnh tả: không để Việt Nam thành Bangladesh thứ hai
Bệnh tật nhìn từ quan điểm của thuyết tiến hóa
Bệnh xơ hóa cơ delta qua y văn thế giới
Bổ sung kẽm và điều trị bệnh tả
Bộ gen trong cây lúa và triển vọng
Bộ Y tế phản ứng chậm với rét đậm
Chiều cao của người Việt
Chiều cao và tổng thống Mĩ
Cholesterol và bệnh Tim
Cholesterol: hung thần hay bạn?
Chuột và... các nhà khoa học
Chính sách y tế cần dựa vào bằng chứng khoa học
Chạy đua vũ khí và … dịch cúm
Chất béo, cholesterol, bệnh tim và statins: xét lại bằng chứng
Chất keo xã hội: hormones
Chất lượng nghiên cứu dịch tễ học và y tế cộng đồng của Việt Nam qua chỉ số H
Chất lượng nghiên cứu khoa học ở Việt Nam qua chỉ số trích dẫn
Chất vấn chuẩn chẩn đoán béo phì
Chế độ ăn uống với nhiều thịt động vật và nguy cơ tử vong
Chủng vi khuẩn tả hiện nay ở nước ta có phải mới xuất hiện?
Cuộc chiến hóa học phi pháp lớn nhất trong lịch sử chiến tranh
Câu chuyện y học: Leptin và béo phì
Có bao nhiêu bác sĩ viết chữ khó đọc
Có nên tập trung vào vi khuẩn E. coli ?
Có thể xảy ra đại dịch cúm gia cầm?
Công cụ đơn giản để chẩn đoán tiểu đường ở người Đông Nam Á
Cúm gia cầm và nhiễu thông tin
Cúm H1N1: biết và chưa biết
Cơ hội để khép lại một chương lịch sử đau lòng
Cần hiểu đúng về Ung thư và nguy cơ ung thư
Cần qui ước đạo đức cho kĩ nghệ thực phẩm
Cần tiêm chủng ngừa bệnh tả vùng có nguy cơ cao
Cần điều tra về chất lượng bệnh viện
Cổ phần hóa bệnh viện công và chất lượng
Cổ phần hóa: chưa phải cách duy nhất
DDT và vấn đề cân đối giữa lợi ích và nguy hiểm
Dinh dưỡng: một nguồn thuốc quí giá
DNA không nói dối, nhưng DNA có thể nói … sai
Dịch cúm gà: hoang mang và sự thật khoa học
Dịch cúm heo và tác hại kinh tế
Dịch tay-chân-miệng
Dịch tả: gọi đúng tên để phòng ngừa
Dựa vào khoa học, đừng dựa vào niềm tin!
E. coli – vài câu hỏi thông thường
Gen và bệnh tật
Ghen tuông dưới cái nhìn của tâm lí y khoa
Gian lận trong nghiên cứu khoa học: áp lực kinh tế và cơ chế bình duyệt
GIÁO DỤC ĐẠI HỌC: KHƠI DẬY VÀ NUÔI DƯỠNG TÍNH HAM HỌC
Giải nobel y học hay sinh lí học 2007 và lợi ích cho người bệnh
Giải Nobel Y sinh học 2008 và những tranh chấp khoa học
Giải Nobel y sinh học 2010 vinh danh người đem niềm vui cho người vô sinh
Giải Nobel y sinh học năm 2005: Một cõi đi về với vi khuẩn
Giải Nobel y sinh học: Nhìn lại quãng đường 100 năm
Giải phẫu ghép mặt và vấn đề y đức
Gout ở xương sống
Gãy xương và tử vong: một vấn nạn y tế cộng đồng
Hiệu quả vắcxin có nghĩa gì?
Hoa vàng mấy độc
Hàm lượng đạm trong sữa “siêu thấp” hay “siêu cao”?
Hóa chất khai hoang trong cuộc chiến Viện Nam: Qui mô và tầm ảnh hưởng
Hướng đi nào để giải quyết vấn đề chất độc da cam ở Việt Nam
Hậu “mắm tôm được minh oan”: bằng chứng khoa học, nhà xí và nghiên cứu
Hệ Thống Học Vị Và Học Hàm Khoa Học Ở Vài Nước Tây Phương
Hợp tác khoa học kiểu nhảy dù - Nguyễn Văn Tuấn
Khi bác sĩ trẻ “khoe” quá nhiều
Khoa học và ngụy khoa học: một vài đặc điểm và khác biệt cần biết
Khoa học, xã hội, và rủi ro
Không thể thành Phù Đổng trong 20 năm!
Khẩu trang và phòng chống cúm A/H1N1
Kiểm định giả thuyết mắm tôm và vi khuẩn tả
Liều lượng melamine bao nhiêu là an toàn?
Lí lịch sinh học của heo và dấu vết văn minh nông nghiệp Đông Nam Á
Lượng giá mạng sống con người
Lợi ích của vitamin D
Miệng nhà quan
Mắm tôm có phải là “thủ phạm” gây bệnh tả? Xét lại bằng chứng khoa học
Mắm tôm và chuyện xin lỗi
Mắm tôm và dịch tả: phân biệt yếu tố nguy cơ và nguyên nhân
Mắm tôm vô tội!
Mắm tôm, nguyên nhân và hệ quả
Mối quan hệ giữa giới y khoa và kĩ nghệ dược
Mối quan hệ giữa giới y khoa và kĩ nghệ dược
Một bệnh hiếm X-linked recessive hypoparathyroidism
Một lần đi phỏng vấn
Một năm nhìn lại
Một phán quyết thiếu cơ sở khoa học
Một vài hiểu lầm tai hại
Một vài ngộ nhận về nghiên cứu khoa học
Một vài vấn đề về qui định chức danh giáo sư ở Việt Nam
Một vụ Madoff trong y khoa: Lại một ngôi sao y khoa rơi rụng!
Mỡ trắng, mỡ nâu
Mỡ  trong máu, huyết áp, và  tiểu đường
Nghiên cứu y học ở Việt Nam: Đặc điểm, thiếu sót, và sai sót
Nghiên cứu y học ở Việt Nam: Đặc điểm, thiếu sót, và sai sót
Nguyên nhân bệnh tiêu chảy
Ngó trên tay điếu thuốc đã lụi dần
Người cao tuổi và sự hạn chế của y khoa
Người ăn chay có mật độ xương như người ăn mặn
Người ăn chay có mật độ xương như người ăn mặn
Nhân chuyện dịch tả nhớ lại John Snow
Nhân câu chuyện điện não đồ xét nghiệm nghiện ma túy:
Nhân năm khỉ_nguồn gốc con người hiện đại
Nhân năm Tý bàn chuyện thí nghiệm trên chuột
Nhìn lại khoa học Việt Nam năm 2008 qua công bố quốc tế
Nhầm lẫn trong y khoa: Khá phổ biến, nhưng ít ai biết!
Những câu hỏi và trả lời về dịch gia cầm
Những sai sót khó tin nhưng có thật
Những sai sót nguy hiểm trong toa thuốc
Những điều khó tin về “Bảy điều khó tin nhất trong y học”
Năm lí do cho mắm tôm “vô tội”
Phán quyết sau cùng: Chất béo không ảnh hưởng đến ung thư và bệnh tim
Phát hiện gien kiểm soát ráy tai: vài bài học về mò kim đáy biển
Phòng chống bệnh phải dựa vào bằng chứng khoa học!
Phòng chống H1N1 bằng rửa tay và khẩu trang: Biện pháp nào hiệu quả hơn?
Qui định cấp giấy phép lái xe dựa vào chiều cao và cân nặng: thiếu cơ sở khoa học và kì thị giới tính
Qui định cấp giấy phép lái xe dựa vào chiều cao: vấn đề giả định và bằng chứng khoa học
Quyền phê phán và trí thức
Quyền được tiếp cận hồ sơ bệnh án
Quản lý chất lượng: Thuốc phòng "tai nạn y khoa"
Rửa tay bằng xà phòng và tiêu chảy
Serotonin có liên quan đến chứng đột tử
Suy dinh dưỡng ở trẻ em: vấn đề của kinh tế
Sàng lọc trẻ sơ sinh trên phạm vi toàn quốc
Tai nạn y khoa trong bệnh viện
Thế nào là một "bài báo khoa học"
Thế nào là “Cơ sở khoa học” ?
Thịt chó là nguyên nhân của bệnh tiêu chảy cấp tính?
Thịt chó và bệnh tả: nguyên nhân và yếu tố nguy cơ
Tiên lượng bệnh Alzheimer bằng protein expression ?
Tiêu chuẩn chất lượng giáo dục đại học
Tiêu chuẩn chẩn đoán béo phì cho người Việt - Nguyễn Văn Tuấn
Tiêu chuẩn chẩn đoán bệnh đái tháo đường (diabetes mellitus)
Tiêu chuẩn đề bạt giáo sư: Có nên căn cứ vào số lượng bài báo ?
Tiêu chảy cấp tính và bệnh tả: Định danh cho đúng
Truy tìm ung thư bằng mammography từ tuổi 50
Truyền thông và khoa học: Qui ước Ingelfinger
Truyền thông và y tế
Truyền thông, khoa học và … doanh nghiệp
Trà xanh và sức khỏe
Trách nhiệm và nhân đạo trong vấn đề chất độc da cam
Trái chanh và phòng chống bệnh tả
Trả lời những câu hỏi liên quan đến loãng xương
Trọng lượng cơ thể và tử vong ở người Trung Quốc: Ý nghĩa về việc xác định tiêu chuẩn chẩn đoán béo phì
Tuổi thọ của người dân giảm 10 năm ?
Tác dụng Placebo trong y học: Tâm lí và ý nghĩa
Tình yêu, sắc đẹp nhìn dưới quan điểm di truyền học
Tín hiệu môi trường từ những “làng ung thư”
Tính khoa học và minh bạch đằng sau xét nghiệm doping
Tại sao không phát biểu về nguyên nhân và hệ quả ?
Tại sao uống rượu gây đỏ mặt và nguy cơ ung thư thực quản
Tạo sinh vô tính và cái chết của Thượng đế
Tạo sinh vô tính và vấn đề sinh đạo đức
Tản mạn về SARS
Tỉ lệ tử vong do cúm heo là bao nhiêu ?
Tự trị, chất lượng và y đức thay vì cổ phần hóa bệnh viện công
Ung thư vú và vấn đề thông tin y khoa
Uống bia hấp dẫn muỗi
Vaccine phòng chống AIDS hiệu quả đến đâu ?
Vaccine phòng chống cúm A/H1N1
Vi khuẩn gây tiêu chảy và ý nghĩa tiêm chủng
Vi khuẩn tả trong chó ?
Viết văn có thể chữa nhiều loại bệnh
Viết văn và trị liệu
Việc ta, ta cứ làm!
Vài nhận xét về 12 điều lệ y đức của Việt Nam
Vài thông tin cần biết về các chương trình truy tìm ung thư vú
Vài đóng góp quan trọng của người Việt khoa học thống kê
Văn hóa khoa học
Văn hóa tranh luận và vấn đề ngụy biện
Vấn đề sinh tố: kẽm và đồng
Vấn đề truy tìm ung thư phổi và hiệu quả 
Vấn đề y đức trong nghiên cứu tế bào mầm (stem cells)
Vấn đề đo lường melamine
Vấn đề đào tạo tiến sĩ: kinh nghiệm từ Australia
Vắc-xin phòng chống ung thư cổ tử cung
Vắcxin ngừa viêm gan B: cẩn thận với “nhiễu thông tin”
Vắcxin ngừa viêm gan B: kinh nghiệm từ nước ngoài
Vắcxin phòng bệnh sởi - quai bị - Rubella: lợi và hại
Vắcxin phòng chống ung thư cổ tử cung: hiệu quả lâm sàng và kinh tế
Vắcxin phòng ngừa bệnh tả: rất cần thiết
Về chấn chỉnh đào tạo tiến sĩ: Công bố bài báo khoa học là một thách thức lớn ?
Về học vị tiến sĩ
Về một sự hiểu lầm thuật ngữ "prospective"
Về phản ứng phụ của bisphosphonates liên quan đến hoại tử xương hàm và rung nhĩ
Vệ sinh như là một loại hàng hóa
Vị thế của nền khoa học Việt Nam
Xung quang xì căng đan về nghiên cứu tế bào mầm
Xã hội hóa và an toàn thực phẩm
Xếp hạng đại học: cần minh bạch hóa phương pháp
Y học hiện đại và những hứa hẹn
Y học thực chứng: vài nét khái quát
Y Khoa và những nhầm lẫn chết người
Y tế dự phòng: nền tảng của y khoa hiện đại
Y đức và nghiên cứu y học
Ói mửa, cao huyết áp và hôn mê
Ăn chay như là một trị liệu
Ăn chay và loãng xương
Điều trị bệnh dựa vào màu da ?
Điều trị đau dây thần kinh tọa bằng phẫu thuật: không có hiệu quả
Đo lường hiệu suất khoa học
Đánh giá đúng tầm quan trọng của ung thư vú 
Đại dịch H1N1
Đại dịch và đại dịch ảo
Đại dịch đã đến ?
Đạo văn trong hoạt động khoa học
Đậu nành và sức khỏe: đâu là thực và đâu là giả
Đậu nành và sức khỏe: đâu là thực và đâu là giả
Đằng sau những con số hàm lượng đạm trong sữa
Đế quốc Trà
Đề bạt các chức danh khoa bảng: vài kinh nghiệm từ Úc
Đọc lại 12 điều y đức của Việt Nam
Đồi điều về sữa nhiễm melamine
Đừng quên melamine trong các thực phẩm khác!
Ước vọng 200 ?
“Kỹ năng mềm” cho nhà khoa học
“Sẽ” và “có thể”


Trang nhiều tác giả
Trang riêng của Lê Ngọc Dũng
Trang riêng của Lương Lễ Hoàng
Trang riêng của Nguyễn Bảo Trung
Trang riêng của Nguyễn Hoài Nam
Trang riêng của Nguyễn Hữu Đức
Trang riêng của Nguyễn Văn Tuấn
Trang riêng của Nguyễn Ý Đức
Trang riêng của Nguyễn Đình Nguyên
Trang riêng của Phan Xuân Trung
Trang riêng của Đỗ Hồng Ngọc
Trang riêng của Đỗ Minh Tuấn