NGUYỄN VĂN TUẤN

Dịch cúm H1N1 và tác hại kinh tế

Nguyễn Văn Tuấn

Diễn biến của nạn dịch cúm H1N1 ở Mexico càng ngày càng phức tạp.  Tính từ ngày 13/4/2009 đến nay, Mexico có 1324 người mắc bệnh cúm H1N1 do phơi nhiễm Vi rút (virus) H1N1, và trong số này khoảng 6% (81 người) tử vong.  Điều đáng quan tâm là những người bị nhiễm và tử vong nằm trong độ tuổi trung niên, chứ không phải người cao tuổi hay trẻ em, vốn là những đối tượng dễ bị ảnh hưởng bởi cúm gia cầm.  Chính phủ Mexico ra lệnh đóng cửa trường học, khuyến cáo tránh tập họp thành đám đông, và tăng cường các biện pháp y tế cộng đồng để đối phó với một nạn dịch có thể nói là nguy hiểm nhất cho nước này.

Có dấu hiệu cho thấy dịch cúm H1N1 đã lan sang Mĩ.  Chỉ trong vòng 1 tuần từ ngày cúm gia cầm đột phát ở Mexico, các bang cạnh giáp biên giới Mexico như California, Texas, Kansas, thậm chí xa hơn như Ohio và New York đã ghi nhận ít nhất 20 ca.  Đặt biệt là ngày 17/4/2009, Trung tâm kiểm soát và phòng ngừa bệnh của Mĩ (CDC) cho biết có 2 trẻ em ở một ngoại ô thuộc thành phố San Diego, giáp biên giới Mexico, có kết quả xét nghiệm dương tính cho Vi rút H1N1.  Phân tích thêm cho thấy Vi rút được phát hiện có một mảng DNA không giống như các Vi rút trước tìm thấy ở con người và heo.  Cả hai em bé đều không có tiếp xúc với heo, và cho đến nay chưa ai biết nguồn nhiễm xuất phát từ đâu.  Các nhà khoa học cho biết mặc dù đây là một chủng mới của Vi rút H1N1 ở con người, họ rất quan tâm rằng có thể Vi rút sẽ có khả năng lây truyền từ người sang người, và các vắcxin hiện hành không có hiệu quả chống lại sự lan tuyền đó.

Trước những diễn biến trên, ngày 25/4/2009, Tổng giám đốc Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) tuyên bố tình trạng khẩn và nhận định rằng vấn đề có qui mô quốc tế.  Có lẽ đây là lần đầu tiên trong 10 năm trở lại đây, WHO phải ra một tuyên bố mang tính nghiêm trọng như hiện nay.  Ngay cả trước đây, khi dịch cúm H5N1 xảy ra ở vài nước châu Á, WHO cũng chưa ra những tuyên bố khẩn.  Và, họ cũng có lí do để cẩn thận trong lần này, bởi vì dịch cúm H1N1 đã từng có “tiền sử” gây tác hại đến con người và kinh tế toàn cầu.

Vi rút H1N1

Vi rút H1N1 là nguyên nhân gây ra nạn đại dịch ở Tây Ban Nha vào năm 1918, giết chết khoảng 50 triệu người trên thế giới chỉ trong vòng 1 năm.  Có người cho rằng con số tử vong thật sự lên đến hàng trăm triệu người; chỉ riêng Ấn Độ, có hơn 20 triệu người chết trong đại dịch 1918.

            Tuy thường được gọi là đại dịch Tây Ban Nha, nhưng thực ra có nhiều bằng chứng khoa học cho thấy đại dịch đó xuất phát từ Mĩ.  Tác hại của H1N1 đến dân số chỉ có thể mô tả bằng hai chữ: kinh khủng.  Tuổi thọ trung bình ở người Mĩ vào năm 1917 là 51, nhưng sau nạn đại dịch 1918, tuổi thọ trung bình giảm xuống chỉ còn 39 tuổi! 

Tuy nhiên, Vi rút H1N1 không phải là Vi rút mới, vì chúng có mặt trong heo từ rất lâu trên khắp thế giới.  Hai Vi rút này cũng từng là thủ phạm gây ra nhiều bệnh đường hô hấp cho heo.  Nghiên cứu ở Anh cho thấy hơn 50% heo ở Anh bị nhiễm Vi rút ít nhất là một lần trong quãng đời sống của heo.  Do đó, có thể nói heo là một vật chủ, một nguồn dự trữ lớn của các Vi rút H1N1 (và H3N2).  

            Hiểu theo nghĩa này, cúm gia cầm luôn luôn là một nguy cơ trực chờ.  Thật vậy, năm 1994, Vi rút H1N1 được tìm thấy trong heo ở Đức, Pháp, Hà Lan, và một số nước thuộc vùng bắc Âu châu.  Ở Đài Loan và Thổ Nhĩ Kì, Vi rút H1N1 còn tìm thấy ở heo và gà tây.  Có lẽ nói không ngoa rằng ở nước ta, Vi rút H1N1 vẫn có tiềm năng tồn tại, nhưng chưa được phát hiện.  

Nếu có cơ hội và môi trường thuận tiện, một dịch cúm gia cầm có thể bộc phát bất cứ lúc nào và bất cứ ở đâu.  Có thể nói trong môi trường sống hiện đại, với mật độ dân số càng ngày càng gia tăng, việc di chuyển giữa các nước trên thế giới trong vòng vài giờ (thay vì vài tháng như trước đây), và phương thức chăn nuôi, sản xuất qui mô lớn (mass production) là những điều kiện lí tưởng cho các Vi rút có cơ hội lan truyền nhanh chóng.

Nguy cơ về một đại dịch

Đứng trên phương diện y tế công cộng, một Vi rút có thể gây đại dịch nếu hội đủ 3 điều kiện: đột biến, tiềm năng lây truyền từ người sang người, và tử vong.  Các dữ liệu ban đầu cho thấy dịch cúm H1N1 hội đủ gần như cả 3 điều kiện, và đó là một mối quan tâm lớn của cộng đồng quốc tế.

Thứ nhất là H1N1 có thể biến dạng và đột biến thành một chủng mới.  Nghiên cứu vừa công bố trên tập san JAMA của Hiệp hội y khoa Mĩ cho thấy Vi rút H1N1 đang trở nên kháng thuốc Tamiflu (oseltamivir), một thuốc hàng đầu trong việc phòng chống cúm gia cầm.  Tỉ lệ kháng thuốc được ghi nhận là 12% ở Mĩ và 16% trên thế giới.  Nhưng điều đáng quan ngại là xét nghiệm của Trung tâm kiểm soát và phòng bệnh của Mĩ mới cho biết 321 trong số 325 (tức 98%) có dấu hiệu kháng thuốc. 

Thứ hai là Vi rút H1N1 có khả năng lan truyền từ người sang người.  Một nghiên cứu ở Hà Lan vào tháng 2/2008 cho thấy 4 bệnh nhân trong một bệnh viện mắc bệnh cúm H1N1 khi phơi nhiễm H1N1, và phân tích di truyền cho thấy các Vi rút giống hệt nhau, và đây là bằng chứng thuyết phục nhất cho thấy Vi rút H1N1 có thể lây từ người sang người.  Hai bệnh nhân ở Mĩ cách nhau hàng trăm cây số nhưng cũng có cùng chủng H1N1, và trước đó trong gia đình đã có người mắc bệnh cúm.

Thứ balà Vi rút H1N1 có thể gây tử vong cho con người.  Như đề cập trong phần đầu của bài viết, tỉ lệ tử vong vì nhiễm H1N1 lên đến 6%, và đây là một tỉ lệ khá cao.  Vi rút H5N1 trước đây cũng chưa có một tỉ lệ tử vong cao như Vi rút này.  Và, trong quá khứ, lịch sử cho thấy một tỉ lệ tử vong lên đến 10% là một nguy cơ có thể xảy ra.  Tuy nhiên, trong điều kiện y tế và y khoa hiện đại như hiện nay, tỉ lệ này có thể sẽ thấp hơn so với trước đây.

Các bằng chứng này cho thấy H1N1 có thể tiến hóa thành một Vi rút mới, có khả năng lây truyền từ người sang người, và gây tử vong cho con người.  Do đó, các chuyên gia hàng đầu về bệnh truyền nhiễm nhấn mạnh rằng đây là một vấn đề toàn cầu, với tầm quan trọng lớn hơn nhiều so với dịch cúm do H5N1 gây ra trong thời gian gần đây.

Ảnh hưởng đến kinh tế

Nếu đại dịch xảy ra ở qui mô toàn cầu thì hệ quả như thế nào?  Hệ quả của một nạn dịch không chỉ là sự tổn thất về nhân mạng mà còn kinh tế.  Dịch bệnh làm cho sự đi lại và giao dịch thương mại bị hạn chế và gây tác động đến nền kinh tế toàn cầu, kể cả du lịch, thực phẩm, đầu tư và thị trường chứng khoán. Ngay hiện nay, Mexico là nước chịu nhiều thiệt thòi nhất: một số nước ra lệnh cấm nhập cảng thịt heo từ Mexico, một số nước thì ra khuyến cáo công dân họ không nên đi du lịch ở Mexico, hay người đi từ Mexico bị khám xét cẩn thận, v.v…

 

            Năm 2006, Vụ ngân sách thuộc Quốc hội Mĩ phân tích về tác động của một đại đại dịch đến nền kinh tế nước Mĩ.  Theo phân tích này, nếu một đại dịch xảy như đại dịch Tây Ban Nha 1918 có thể làm cho tổng sản lượng quốc dân giảm 4%, hay một đại dịch nhẹ hơn (như dịch cúm năm 1957 và 1968) cũng có thể làm giảm tổng sản lượng quốc dân khoảng 1%. 

Năm ngoái, Ngân hàng Thế giới (WB) ước tính rằng nếu một nạn đại dịch xảy ra trên qui mô toàn cầu sẽ có thể tốn 3 ngàn tỉ USD và làm mất 5% tổng sản lượng thế giới, và khoảng 70 triệu người có thể tử vong.  Một số ước tính khác cho rằng con số thiệt hại kinh tế có thể còn hơn 4.400 tỉ USD.

Như để thấy những thiệt hại trên không phải là viễn vông, chúng ta có thể xem qua tác động của nạn dịch SARS năm 2003.  Dịch SARS làm cho việc đi lại bị hạn chế, thương mại bị gián đoạn và làm cho 25 nước vùng châu Á Thái Bình Dương mất gần 40 tỉ USD, với 775 người tử vong và 8000 người bị nhiễm.  

 

Ngừa bệnh hơn chữa bệnh

 

Tuy diễn biến của dịch cúm rất khó tiên đoán, nhưng chúng ta có thể nghĩ đến ba tình huống trong tương lai: một là H1N1 sẽ đột biến để có khả năng lan truyền từ người sang người qua hòa nhập với các Vi rút khác trong con người; hai là qua đường truyền nhiễm (khi con người bị bệnh truyền nhiễm, Vi rút H1N1 có thể đột biến để thích nghi với cơ thể con người); và ba là H1N1 có thể trở nên trung hòa với cơ thể con người. Trong ba tình huống, Vi rút H1N1 đều có thể trở nên một tác nhân gây bệnh nguy hiểm. Đứng trên quan điểm y tế công cộng, phòng bệnh vẫn hơn là chữa bệnh.

Bản chất của cúm gia cầm là truyền nhiễm. Do đó, vắcxin là một biện pháp hàng đầu và hữu hiệu nhất ở mức độ cộng đồng.  Trong quá khứ, chính vì thiếu vắc-xin, cho nên con số tử vong vì các nạn dịch lên đến hàng triệu. Chúng ta không để một tình trạng như thể xảy ra trong tương lai. Tuy nhiên, vấn đề đáng quan tâm hiện nay là có tín hiệu cho thấy Vi rút H1N1 phát hiện ở Mexico có thể kháng thuốc. Điều này đặt ra nhu cầu cho nghiên cứu khoa học tìm hiểu về cơ chế gây bệnh và kháng thuốc của Vi rút.

Vì H1N1 có thể lan truyền từ người sang người, và trong thời đại di chuyển bằng máy bay ngày nay, khả năng H1N1 đi từ Mexico hay các nước gần Mexico như Mĩ và Canada đến Việt Nam không phải là ngày mà là giờ.  Ở một số nước Á châu, các quan chức y tế đã thiết lập những trạm y tế để phát hiện hành khách phơi nhiễm H1N1 ngay từ các trạm hải quan biên giới và phi trường.  Nếu phòng bệnh hơn chữa bệnh, có lẽ nước ta cũng cần một trạm như thế ở phi trường, với sự hỗ trợ của các chuyên gia của Mĩ và Tổ chức Y tế Thế giới.

 

 

 

Tìm hiểu H1N1

 

Các Vi rút cúm được chia thành 3 nhóm chính: A, B và C.  Các Vi rút thuộc nhóm B và C thường tìm thấy ở con người nhưng chúng không có tác hại lớn, ngoại trừ gây ra vài rối loạn cấp tính đường hô hấp, chúng không có khả năng gây tử vong cho bệnh nhân.  Nhưng các Vi rút thuộc nhóm A là đáng quan tâm hơn hết, bởi vì chúng có thể đột biến một cách nhanh chóng thành những Vi rút có khả năng kháng nguyên (antigenic), có nghĩa là chúng có thể tiến hóa thành những Vi rút mà hệ thống miễn nhiễm của con người không nhận ra được (và không có khả năng phòng chống chúng).

 

Vi rút cúm thuộc nhóm A có cấu trúc gồm hai nhóm protein: hemagglutinin (HA) và neuraminidase (NA).  HA có 15 chi với mã danh H1 đến H15.  NA có 9 chi với mã danh N1 đến N9.  Vi rút H1N1 và H5N1 là một trong những chi Vi rút này.  Vi rút thuộc chi H1, H2 và H3 đã được biết có lan truyền trong con người từ 100 năm qua.  Nhưng Vi rút H5 thì vẫn còn là một “kẻ thù” xa lạ đối với hệ thống miễn nhiễm của con người.

 

 

 


200 năm Darwin
Agent Orange: collateral damage
Alexandre Yersin và Việt Nam
Bàn về hiệu quả vắcxin: lâm sàng và kinh tế
Bàn về vấn đề dịch thuật và đánh giá năng suất khoa học
Béo phì ở người Á châu
Béo phì ở trẻ em và virus
Bình luận từ Dr. Yến
Bưởi không gây ung thư vú
Bảo hiểm y tế cộng đồng
Bảo tồn môi sinh: Chiến tranh giữa hai thế giới
Bằng chứng khoa học thay vì lên lớp
Bệnh tả: không để Việt Nam thành Bangladesh thứ hai
Bệnh tật nhìn từ quan điểm của thuyết tiến hóa
Bệnh xơ hóa cơ delta qua y văn thế giới
Bổ sung kẽm và điều trị bệnh tả
Bộ gen trong cây lúa và triển vọng
Bộ Y tế phản ứng chậm với rét đậm
Chiều cao của người Việt
Chiều cao và tổng thống Mĩ
Cholesterol và bệnh Tim
Cholesterol: hung thần hay bạn?
Chuột và... các nhà khoa học
Chính sách y tế cần dựa vào bằng chứng khoa học
Chạy đua vũ khí và … dịch cúm
Chất béo, cholesterol, bệnh tim và statins: xét lại bằng chứng
Chất keo xã hội: hormones
Chất lượng nghiên cứu dịch tễ học và y tế cộng đồng của Việt Nam qua chỉ số H
Chất lượng nghiên cứu khoa học ở Việt Nam qua chỉ số trích dẫn
Chất vấn chuẩn chẩn đoán béo phì
Chế độ ăn uống với nhiều thịt động vật và nguy cơ tử vong
Chủng vi khuẩn tả hiện nay ở nước ta có phải mới xuất hiện?
Cuộc chiến hóa học phi pháp lớn nhất trong lịch sử chiến tranh
Câu chuyện y học: Leptin và béo phì
Có bao nhiêu bác sĩ viết chữ khó đọc
Có nên tập trung vào vi khuẩn E. coli ?
Có thể xảy ra đại dịch cúm gia cầm?
Công cụ đơn giản để chẩn đoán tiểu đường ở người Đông Nam Á
Cúm gia cầm và nhiễu thông tin
Cúm H1N1: biết và chưa biết
Cơ hội để khép lại một chương lịch sử đau lòng
Cần hiểu đúng về Ung thư và nguy cơ ung thư
Cần qui ước đạo đức cho kĩ nghệ thực phẩm
Cần tiêm chủng ngừa bệnh tả vùng có nguy cơ cao
Cần điều tra về chất lượng bệnh viện
Cổ phần hóa bệnh viện công và chất lượng
Cổ phần hóa: chưa phải cách duy nhất
DDT và vấn đề cân đối giữa lợi ích và nguy hiểm
Dinh dưỡng: một nguồn thuốc quí giá
DNA không nói dối, nhưng DNA có thể nói … sai
Dịch cúm gà: hoang mang và sự thật khoa học
Dịch cúm heo và tác hại kinh tế
Dịch tay-chân-miệng
Dịch tả: gọi đúng tên để phòng ngừa
Dựa vào khoa học, đừng dựa vào niềm tin!
E. coli – vài câu hỏi thông thường
Gen và bệnh tật
Ghen tuông dưới cái nhìn của tâm lí y khoa
Gian lận trong nghiên cứu khoa học: áp lực kinh tế và cơ chế bình duyệt
GIÁO DỤC ĐẠI HỌC: KHƠI DẬY VÀ NUÔI DƯỠNG TÍNH HAM HỌC
Giải nobel y học hay sinh lí học 2007 và lợi ích cho người bệnh
Giải Nobel Y sinh học 2008 và những tranh chấp khoa học
Giải Nobel y sinh học 2010 vinh danh người đem niềm vui cho người vô sinh
Giải Nobel y sinh học năm 2005: Một cõi đi về với vi khuẩn
Giải Nobel y sinh học: Nhìn lại quãng đường 100 năm
Giải phẫu ghép mặt và vấn đề y đức
Gout ở xương sống
Gãy xương và tử vong: một vấn nạn y tế cộng đồng
Hiệu quả vắcxin có nghĩa gì?
Hoa vàng mấy độc
Hàm lượng đạm trong sữa “siêu thấp” hay “siêu cao”?
Hóa chất khai hoang trong cuộc chiến Viện Nam: Qui mô và tầm ảnh hưởng
Hướng đi nào để giải quyết vấn đề chất độc da cam ở Việt Nam
Hậu “mắm tôm được minh oan”: bằng chứng khoa học, nhà xí và nghiên cứu
Hệ Thống Học Vị Và Học Hàm Khoa Học Ở Vài Nước Tây Phương
Hợp tác khoa học kiểu nhảy dù - Nguyễn Văn Tuấn
Khi bác sĩ trẻ “khoe” quá nhiều
Khoa học và ngụy khoa học: một vài đặc điểm và khác biệt cần biết
Khoa học, xã hội, và rủi ro
Không thể thành Phù Đổng trong 20 năm!
Khẩu trang và phòng chống cúm A/H1N1
Kiểm định giả thuyết mắm tôm và vi khuẩn tả
Liều lượng melamine bao nhiêu là an toàn?
Lí lịch sinh học của heo và dấu vết văn minh nông nghiệp Đông Nam Á
Lượng giá mạng sống con người
Lợi ích của vitamin D
Miệng nhà quan
Mắm tôm có phải là “thủ phạm” gây bệnh tả? Xét lại bằng chứng khoa học
Mắm tôm và chuyện xin lỗi
Mắm tôm và dịch tả: phân biệt yếu tố nguy cơ và nguyên nhân
Mắm tôm vô tội!
Mắm tôm, nguyên nhân và hệ quả
Mối quan hệ giữa giới y khoa và kĩ nghệ dược
Mối quan hệ giữa giới y khoa và kĩ nghệ dược
Một bệnh hiếm X-linked recessive hypoparathyroidism
Một lần đi phỏng vấn
Một năm nhìn lại
Một phán quyết thiếu cơ sở khoa học
Một vài hiểu lầm tai hại
Một vài ngộ nhận về nghiên cứu khoa học
Một vài vấn đề về qui định chức danh giáo sư ở Việt Nam
Một vụ Madoff trong y khoa: Lại một ngôi sao y khoa rơi rụng!
Mỡ trắng, mỡ nâu
Mỡ  trong máu, huyết áp, và  tiểu đường
Nghiên cứu y học ở Việt Nam: Đặc điểm, thiếu sót, và sai sót
Nghiên cứu y học ở Việt Nam: Đặc điểm, thiếu sót, và sai sót
Nguyên nhân bệnh tiêu chảy
Ngó trên tay điếu thuốc đã lụi dần
Người cao tuổi và sự hạn chế của y khoa
Người ăn chay có mật độ xương như người ăn mặn
Người ăn chay có mật độ xương như người ăn mặn
Nhân chuyện dịch tả nhớ lại John Snow
Nhân câu chuyện điện não đồ xét nghiệm nghiện ma túy:
Nhân năm khỉ_nguồn gốc con người hiện đại
Nhân năm Tý bàn chuyện thí nghiệm trên chuột
Nhìn lại khoa học Việt Nam năm 2008 qua công bố quốc tế
Nhầm lẫn trong y khoa: Khá phổ biến, nhưng ít ai biết!
Những câu hỏi và trả lời về dịch gia cầm
Những sai sót khó tin nhưng có thật
Những sai sót nguy hiểm trong toa thuốc
Những điều khó tin về “Bảy điều khó tin nhất trong y học”
Năm lí do cho mắm tôm “vô tội”
Phán quyết sau cùng: Chất béo không ảnh hưởng đến ung thư và bệnh tim
Phát hiện gien kiểm soát ráy tai: vài bài học về mò kim đáy biển
Phòng chống bệnh phải dựa vào bằng chứng khoa học!
Phòng chống H1N1 bằng rửa tay và khẩu trang: Biện pháp nào hiệu quả hơn?
Qui định cấp giấy phép lái xe dựa vào chiều cao và cân nặng: thiếu cơ sở khoa học và kì thị giới tính
Qui định cấp giấy phép lái xe dựa vào chiều cao: vấn đề giả định và bằng chứng khoa học
Quyền phê phán và trí thức
Quyền được tiếp cận hồ sơ bệnh án
Quản lý chất lượng: Thuốc phòng "tai nạn y khoa"
Rửa tay bằng xà phòng và tiêu chảy
Serotonin có liên quan đến chứng đột tử
Suy dinh dưỡng ở trẻ em: vấn đề của kinh tế
Sàng lọc trẻ sơ sinh trên phạm vi toàn quốc
Tai nạn y khoa trong bệnh viện
Thế nào là một "bài báo khoa học"
Thế nào là “Cơ sở khoa học” ?
Thịt chó là nguyên nhân của bệnh tiêu chảy cấp tính?
Thịt chó và bệnh tả: nguyên nhân và yếu tố nguy cơ
Tiên lượng bệnh Alzheimer bằng protein expression ?
Tiêu chuẩn chất lượng giáo dục đại học
Tiêu chuẩn chẩn đoán béo phì cho người Việt - Nguyễn Văn Tuấn
Tiêu chuẩn chẩn đoán bệnh đái tháo đường (diabetes mellitus)
Tiêu chuẩn đề bạt giáo sư: Có nên căn cứ vào số lượng bài báo ?
Tiêu chảy cấp tính và bệnh tả: Định danh cho đúng
Truy tìm ung thư bằng mammography từ tuổi 50
Truyền thông và khoa học: Qui ước Ingelfinger
Truyền thông và y tế
Truyền thông, khoa học và … doanh nghiệp
Trà xanh và sức khỏe
Trách nhiệm và nhân đạo trong vấn đề chất độc da cam
Trái chanh và phòng chống bệnh tả
Trả lời những câu hỏi liên quan đến loãng xương
Trọng lượng cơ thể và tử vong ở người Trung Quốc: Ý nghĩa về việc xác định tiêu chuẩn chẩn đoán béo phì
Tuổi thọ của người dân giảm 10 năm ?
Tác dụng Placebo trong y học: Tâm lí và ý nghĩa
Tình yêu, sắc đẹp nhìn dưới quan điểm di truyền học
Tín hiệu môi trường từ những “làng ung thư”
Tính khoa học và minh bạch đằng sau xét nghiệm doping
Tại sao không phát biểu về nguyên nhân và hệ quả ?
Tại sao uống rượu gây đỏ mặt và nguy cơ ung thư thực quản
Tạo sinh vô tính và cái chết của Thượng đế
Tạo sinh vô tính và vấn đề sinh đạo đức
Tản mạn về SARS
Tỉ lệ tử vong do cúm heo là bao nhiêu ?
Tự trị, chất lượng và y đức thay vì cổ phần hóa bệnh viện công
Ung thư vú và vấn đề thông tin y khoa
Uống bia hấp dẫn muỗi
Vaccine phòng chống AIDS hiệu quả đến đâu ?
Vaccine phòng chống cúm A/H1N1
Vi khuẩn gây tiêu chảy và ý nghĩa tiêm chủng
Vi khuẩn tả trong chó ?
Viết văn có thể chữa nhiều loại bệnh
Viết văn và trị liệu
Việc ta, ta cứ làm!
Vài nhận xét về 12 điều lệ y đức của Việt Nam
Vài thông tin cần biết về các chương trình truy tìm ung thư vú
Vài đóng góp quan trọng của người Việt khoa học thống kê
Văn hóa khoa học
Văn hóa tranh luận và vấn đề ngụy biện
Vấn đề sinh tố: kẽm và đồng
Vấn đề truy tìm ung thư phổi và hiệu quả 
Vấn đề y đức trong nghiên cứu tế bào mầm (stem cells)
Vấn đề đo lường melamine
Vấn đề đào tạo tiến sĩ: kinh nghiệm từ Australia
Vắc-xin phòng chống ung thư cổ tử cung
Vắcxin ngừa viêm gan B: cẩn thận với “nhiễu thông tin”
Vắcxin ngừa viêm gan B: kinh nghiệm từ nước ngoài
Vắcxin phòng bệnh sởi - quai bị - Rubella: lợi và hại
Vắcxin phòng chống ung thư cổ tử cung: hiệu quả lâm sàng và kinh tế
Vắcxin phòng ngừa bệnh tả: rất cần thiết
Về chấn chỉnh đào tạo tiến sĩ: Công bố bài báo khoa học là một thách thức lớn ?
Về học vị tiến sĩ
Về một sự hiểu lầm thuật ngữ "prospective"
Về phản ứng phụ của bisphosphonates liên quan đến hoại tử xương hàm và rung nhĩ
Vệ sinh như là một loại hàng hóa
Vị thế của nền khoa học Việt Nam
Xung quang xì căng đan về nghiên cứu tế bào mầm
Xã hội hóa và an toàn thực phẩm
Xếp hạng đại học: cần minh bạch hóa phương pháp
Y học hiện đại và những hứa hẹn
Y học thực chứng: vài nét khái quát
Y Khoa và những nhầm lẫn chết người
Y tế dự phòng: nền tảng của y khoa hiện đại
Y đức và nghiên cứu y học
Ói mửa, cao huyết áp và hôn mê
Ăn chay như là một trị liệu
Ăn chay và loãng xương
Điều trị bệnh dựa vào màu da ?
Điều trị đau dây thần kinh tọa bằng phẫu thuật: không có hiệu quả
Đo lường hiệu suất khoa học
Đánh giá đúng tầm quan trọng của ung thư vú 
Đại dịch H1N1
Đại dịch và đại dịch ảo
Đại dịch đã đến ?
Đạo văn trong hoạt động khoa học
Đậu nành và sức khỏe: đâu là thực và đâu là giả
Đậu nành và sức khỏe: đâu là thực và đâu là giả
Đằng sau những con số hàm lượng đạm trong sữa
Đế quốc Trà
Đề bạt các chức danh khoa bảng: vài kinh nghiệm từ Úc
Đọc lại 12 điều y đức của Việt Nam
Đồi điều về sữa nhiễm melamine
Đừng quên melamine trong các thực phẩm khác!
Ước vọng 200 ?
“Kỹ năng mềm” cho nhà khoa học
“Sẽ” và “có thể”


Trang nhiều tác giả
Trang riêng của Lê Ngọc Dũng
Trang riêng của Lương Lễ Hoàng
Trang riêng của Nguyễn Bảo Trung
Trang riêng của Nguyễn Hoài Nam
Trang riêng của Nguyễn Hữu Đức
Trang riêng của Nguyễn Văn Tuấn
Trang riêng của Nguyễn Ý Đức
Trang riêng của Nguyễn Đình Nguyên
Trang riêng của Phan Xuân Trung
Trang riêng của Đỗ Hồng Ngọc
Trang riêng của Đỗ Minh Tuấn