Một phán quyết thiếu cơ sở khoa học
Nguyễn Văn Tuấn
Ngày hôm qua (22/2/08) phiên tòa phúc thẩm ở New York đã bác bỏ kháng đơn của Hội nạn nhân chất độc da cam Việt Nam, tức giữ nguyên phán quyết của chánh án Weinstein tháng 3 năm 2005. Phiên tòa phúc thẩm ở New York hôm qua phán xét rằng phía nguyên đơn đã thất bại trong việc chứng minh rằng sử dụng chất độc da cam, một hóa học diệt cỏ, trong thời chiến là vi phạm luật quốc tế về vũ khí độc hại. Phiên tòa còn nhận xét rằng phía nguyên đơn đã không chứng minh được những vấn đề sức khỏe của nguyên đơn có dính dáng đến chất độc da cam. Chúng ta thử xem qua phán quyết về hai điểm trên của tòa án xác tính cỡ nào.
Công pháp quốc tế
Báo cáo của Liên hiệp quốc viết năm 1969 định nghĩa các tác nhân chiến tranh hóa học (chemical warfare agents) là “… những hóa chất – dù là khí, chất lỏng hay chất đặc – có thể sử dụng vì ảnh hưởng độc hại của chúng trên con người, thú vật và thực vật.”
Nghị định Geneva năm 1925 đặt ngoài vòng pháp luật việc sử dụng bất cứ chất lỏng, vật liệu, hay công cụ nào chứa độc chất trong chiến tranh. Do đó, dựa vào nguyên lí của hai qui ước quốc tế này, hành động đầu độc cây cỏ, tiêu hủy mùa màng và hủy hoại môi sinh có thể xem là vi phạm công pháp quốc tế.
Qui ước về Vũ khí hóa học (The Chemical Weapons Convention) định nghĩa vũ khí hóa học không chỉ bao gồm những độc chất nhưng còn kể cả đạn dược và thiết bị sử dụng để phân tán độc chất nữa. Độc chất được định nghĩa bao gồm “ ... bất cứ hóa chất nào có tác hại đến sự sống của con người, và gây ra tử vong, thương tật cho con người và thú vật.”
Dioxins được xem là một trong những độc chất nguy hiểm nhất trong các hóa chất do con người tạo ra và biết đến. Năm 1997, Cơ quan nghiên cứu ung thư quốc tế (International Agency for Research on Cancer) cũng phân loại dioxins là một độc chất có khả năng gây ra ung thư cho con người. Tưởng cần nhắc lại là trước đây, Cơ quan Bảo vệ Môi trường (Environmental Protection Agency, EPA, Mĩ) chỉ phân loại dioxin như là một chất "có thể gây ra ung thư". Nhưng trong một báo cáo khoa học mật được đệ trình lên Quốc hội Mĩ, các nhà nghiên cứu Mĩ đã khẳng định rằng dioxin gây ra nhiều ung thư trong con người, kể cả ung thư máu và ung thư phổi. Họ cũng đề nghị EPA phân loại lại dioxin là độc chất số một, tức độc hại nhất trong các hóa chất.
Tiến sĩ James R. Clary thuộc cơ quan nghiên cứu vũ khí hóa học (Chemical Weapons Branch) trực thuộc Airforce Armament Development Laboratory (Florida) cho biết giới quân sự Mĩ đã biết hóa chất mà họ sử dụng trong chiến dịch khai hoang ở Việt Nam có nồng độ độc hại cao hơn nồng độ bình thường. Tiến sĩ Clary viết [tạm dịch]: “Lúc chúng tôi (các nhà khoa học quân đội) khởi xướng chương trình khai hoang vào thập niên 1960s, chúng tôi biết tiềm năng độc hại của chất dioxin chứa trong hóa chất diệt cỏ. Chúng tôi còn biết rằng công thức mà giới quân sự dùng có nồng độ dioxin cao hơn nồng độ mà giới dân sự dùng, vì chi phí rẻ và thời gian sản xuất ngắn. Tuy nhiên, vì hóa chất sẽ được dùng trên kẻ thù, không ai trong chúng tôi quan tâm thái quá. Chúng tôi không bao giờ nghĩ là quân đội chúng ta lại bị nhiễm độc chất. Và, nếu chúng tôi nghĩ đến tình huống này, chúng tôi mong muốn chính phủ chúng ta giúp đỡ các cựu chiến binh bị nhiễm độc chất.”
Trước cũng như sau cuộc chiến Việt Nam, Mĩ lập trường rằng chất độc màu da cam chỉ là “thuốc diệt cỏ”. Tuy nhiên, năm 1969, Đại hội đồng Liên hiệp quốc nhóm họp và ra nghị quyết khẳng định rằng Nghị định Geneva năm 1925 áp dụng cho tất cả các loại vũ khí, kể cả vũ khí hóa học và độc chất màu da cam. Vì thế, có thể nói chiến dịch dùng dioxin trong chiến tranh là một vi phạm công pháp quốc tế. Có lẽ nhận thức được sự nghiêm trọng này, năm 1975 Tổng thống Gerald Ford kí sắc lệnh sô 11850 rằng Mĩ sẽ không là quốc gia đầu tiên dùng thuốc diệt cỏ trong chiến tranh.
Mối liên hệ giữa chất độc da cam và bệnh tật
Trong phán quyết năm 2005, thẩm phán Weinstein không thấy thuyết phục bởi các luận điểm của phía nguyên đơn về nguyên nhân bệnh tật. Năm nay, tòa án phúc thẩm lặp lại phán quyết này.
Tuy nhiên, đây là một phán quyết khó hiểu nhất. Nếu nói về cái gọi là chứng minh mối liên hệ nhân quả thì nó đi ra ngoài phạm vi của y khoa. Trong y khoa và khoa học, không có cái gọi là “chứng minh”, mà chỉ có bằng chứng có nhất quán hay không nhất quán với giả thuyết hay không mà thôi. Trong y tế công cộng, người ta không có và sẽ không bao giờ có (ngoại trừ cố ý giết người) cái xa xỉ để thử nghiệm bằng cách cho nạn nhân uống dioxin để xem có bệnh hay không. Không ai biết một cách chính xác cơ chế gây tác hại của thuốc lá, nhưng vì người hút thuốc có nhiều bệnh so với người không hút thuốc lá, và sự thật đó cũng đủ để xã hội hạn chết hút thuốc lá. Tương tự, chưa ai biết chính xác những cơ chế sinh học gây tác hại của chất độc da cam và dioxin, nhưng sự thật là cựu chiến binh Mĩ và Việt Nam từng bị phơi nhiễm độc chất có nguy cơ sinh con với dị tật bẩm sinh cao, và sự thật đó cũng phù hợp với giả thuyết gây tác hại của độc chất da cam.
Trong các trường hợp khác về bồi thường do nhiễm độc chất (như trường hợp “Erin Brockovich” ở California như đề cập đến trong phán quyết), nguyên đơn chỉ cần trưng bày bằng chứng cho thấy tỉ lệ bệnh tật trong nhóm bị nhiễm độc chất cao hơn nhóm không bị nhiễm (và đó không thể là mối liên hệ nhân quả) vẫn được xem là bằng chứng thuyết phục. Trong trường hợp này, có nghiên cứu cho thấy trong thời gian từ 1955-1964 (trước khi có chiến dịch phun độc chất) tỉ lệ dị tật thai nhi trong 3 làng là 2,1%, và giữa những năm 1965-1974 (sau khi chiến dịch da cam) thì tỉ lệ này trong 3 làng trên tăng đến 5% (Trích từ bài báo trong tập san Environmental Health Perspectives 2000; 108: số 10), và dùng lí luận của trường hợp Erin Brockovich, người ta cũng có thể xem đó là bằng chứng về tác hại của chất độc da cam. Do đó, việc đòi hỏi bằng chứng của Weinstein xem ra là một đòi hỏi quá máy móc!
Tuy nhiên, cho rằng trường hợp của các cựu chiến binh Mĩ không áp dụng thì quả là kiểu nói “lưỡng chuẩn” (double standard) bởi vì trong thực tế, chính phủ Mĩ chỉ bồi thường cho những cựu chiến binh nào mắc những bệnh mà có bằng chứng cho thấy là chúng có liên quan đến chất độc da cam. Xin nêu một ví dụ cụ thể: đầu năm nay 2003, một thông cáo báo chí từ Viện Y khoa Mĩ (Institute of Medicine; trực thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Mĩ) cho biết, sau khi duyệt xét qua 6 công trình nghiên cứu về ảnh hưởng của dioxin (trong vòng 2 năm qua), các nhà khoa học tuyên bố họ đã có đủ bằng chứng để kết luận rằng dioxin là nguyên nhân gây ra chứng ung thư bạch cầu mãn tính (tức là Chronic lymphocytic leukemia, hay CLL). Trước đây, người ta từng nghi ngờ CLL có liên hệ với dioxin, nhưng bằng chứng khoa học chưa được rõ ràng; nay thì mối liên hệ đó coi như đã được khẳng định. Điều quan trọng là các dữ kiện khoa học này không phải xuất phát từ nghiên cứu trên cựu quân nhân Mĩ, mà từ các nghiên cứu trên các công nhân làm việc trong các hãng xưởng hóa chất. Nếu dựa vào cách thẩm định bằng chứng của tòa án Mĩ, người ta cũng có thể nói rằng chưa có bằng chứng về mối liên hệ giữa dioxin và CLL!
Tòa án Mĩ không nên phủi tay hay đòi hỏi “bằng chứng”, bởi vì như đề cập trên, có bằng chứng cho thấy trước khi xịt chất màu da cam xuống Việt Nam, họ đã biết được chất này là độc hại, nhưng vì lúc đó họ coi người Việt là kẻ thù nên họ không quan tâm gì đến mạng sống của người Việt. Đúng như Tiến sĩ Dwernynchuk (công ti Hartfield Consultants của Canada) nói rất rõ ràng rằng không cần phải có thêm nghiên cứu; vấn đề cần thiết trước mắt là xoa dịu và bảo vệ nạn nhân độc chất da cam.
Trong khoảng 15 năm qua, Mĩ tiêu ra hơn 350 triệu Mĩ kim để đi tìm những hài cốt lính Mĩ đã mất tích trong thời chiến ở Việt Nam. Còn nạn nhân độc chất da cam thì họ không màng đến, thậm chí còn tìm cách cố chối tránh vấn đề. Thực là khó hiểu: trong khi họ tiêu tiền như nước để đi tìm những bóng ma, nhưng lại sao lãng nạn nhân đang sống ngay trước mắt họ! Hay là lằn ranh chủng tộc và văn hóa vẫn còn chi phối và làm lu mờ công lí Mĩ?
Diễn tiến vụ kiện · Trong thời gian 1961 – 1971, quân đội Mĩ phun xuống Việt Nam (chủ yếu là ở miền Trung và Nam) khoảng 77 triệu lít hóa chất khai quang, trong số này khoảng 64% là chất độc da cam. Đây là chiến dịch sử dụng hóa chất lớn nhất trong lịch sử chiến tranh thế giới. · Năm 1984 một nhóm cựu chiến binh Mĩ đệ kiện các công ti hóa chất Mĩ về những tác hại sức khỏe mà họ chịu phải khi tham gia vào chiến dịch phun độc chất. Vụ kiện, dưới sự chủ trì của Thẩm phán Jack Weinstein, tuy nhiên không được tiến hành, mà kết thúc bằng một thỏa thuận ngoài tòa. Theo thỏa thuận này, các công ti hóa chất đồng ý lập ra một quĩ y tế xã hội khoảng 180 triệu Mĩ kim nhằm trợ cấp cho các cựu chiến binh Mĩ từng bị ảnh hưởng bởi chất độc da cam. Trong phiên tòa này, thẩm phán Weinstein cho rằng các công ti phải chịu trách nhiệm về sản phẩm của họ. Ông nói thêm rằng các công ti không thể nói rằng họ chỉ làm theo đơn đặt hàng, vì họ có thể từ chối hợp đồng nếu họ muốn. · Ngày 30/1/2004, Hội nạn nhân chất độc da cam Việt Nam quyết định đệ đơn kiện các công ti hóa chất Mĩ. Các công ti này bị truy tố với 10 tội phạm, kể cả tội phạm chiến tranh, làm lợi bất chính, gây thương tích cho thường dân, v.v. Vụ kiện đã gây được chú ý của thế giới về nạn nhân dioxin ở Việt Nam, bởi vì trước đây nói đến dioxin người ta chỉ nghĩ đến cựu chiến binh Mĩ. Dư luận thế giới đồng loạt và nhiệt tình đứng về phía các nạn nhân. Hàng triệu chữ kí của công dân khắp năm châu là một biểu hiện sự ủng hộ của họ dành cho nạn nhân Việt Nam. · Sau một thời gian xem xét bằng chứng từ phía nguyên đơn và bị đơn, ngày 10/3/2005, Thẩm phán Jack Weinstein thuộc tòa án địa hạt Brooklyn, New York, công bố phán quyết trong một tài liệu dài 233 trang. Trong bản phán quyết dài và phức tạp, ông Weinstein đề cập đến các trường hợp kiện cáo trước đây, đến các khía cạnh lí thuyết của luật pháp Mĩ và luật pháp quốc tế, và kết luận rằng: “Các yêu sách của phía nguyên đơn không có cơ sở pháp lí dưới bất cứ luật nội địa, hay luật quốc gia, hay luật tiểu bang, hay luật quốc tế. Vụ kiện không được xét xử.” · Phía nguyên đơn quyết định theo đuổi vụ kiện qua một phiên tòa phúc thẩm. Ngày 18/6/2007, tòa án New York bắt đầu xét xử đơn của Hội nạn nhân chất độc da cam Việt Nam đệ đơn kiện 32 công ti hóa học từng sản xuất và cung cấp hóa chất, kể cả chất độc màu da cam sử dụng trong cuộc chiến kéo dài suốt 10 năm (từ 1961-1971). Phiên tòa thu hút sự chú ý của thế giới và ngay cả quốc hội Mĩ, vì một phần phiên tòa diễn ra ngay trước khi chuyến thăm Mĩ của chủ tịch Nguyễn Minh Triết. Ngoài dư luận ủng hộ phía nguyên đơn (tức Hội nạn nhân chất độc da cam Việt Nam), giới cựu chiến binh Hàn Quốc, New Zealand, và Úc cũng theo dõi xem phán quyết của tòa án vì họ cũng có dự định kiện các công ti hóa chất Mĩ do những phơi nhiễm mà họ chịu phải trong thời chiến. · Ngày 22/2/08 phiên tòa phúc thẩm ở New York bác bỏ kháng đơn của Hội nạn nhân chất độc da cam Việt Nam và giữ nguyên phán quyết của chánh án Weinstein. Luật sư phía nguyên đơn nhận xét rằng nếu đây là phán quyết sau cùng thì một chương lịch sử đau buồn trong chiến tranh Mĩ – Việt liên quan đến chất độc da cam đã chấm dứt. Người viết bài này không nghĩ như thế. Bất kể phán quyết của tòa án ra sao, vấn đề vẫn tồn tại khi thế giới này vẫn tồn tại vì nó là một vết nhơ trong chiến tranh mà thế giới không thể nào quên được. |