NGUYỄN VĂN TUẤN

Béo phì ở người Á châu: chuẩn nào hợp lí ?

Nguyễn Văn Tuấn

Béo phì đang là một vấn nạn y tế toàn cầu, với những nước giàu có nhiều người béo phì hơn những nước nghèo.  Theo thống kê mới nhất khoảng 1/3 người Mĩ trên 20 tuổi đang ở trong tình trạng béo phì.  Ngay cả ở các nước trong vùng Đông Nam Á, có báo cáo cho thấy cứ 4 người trên 20 tuổi thì có 1 người béo phì.  Lần đầu trong lịch sử nhân loại, số người béo phì và quá cân trở nên cao hơn số người thiếu cân và thiếu dinh dưỡng. 

Có thể xem béo phì như là một bệnh mạn tính, như tăng huyết áp và xơ vữa động mạch.  Béo phì là một yếu tố nguy cơ của một số bệnh như viêm khớp xương, tiểu đường, kháng insulin, cao huyết áp, các bệnh tim mạch, ung thư và làm thay đổi hệ thống nội tiết, và hệ quả là tử vong.  Theo ước tính của các nhà dịch tễ học, những người béo phì (không hút thuốc lá) ở độ tuổi 40 có tuổi thọ trung bình ngắn hơn người không béo phì khoảng 3,3 năm.  Nếu béo phì và hút thuốc lá, tuổi thọ bị rút ngắn từ 5 đến 7 năm.  Độ mỡ càng nhiều, mức độ giảm tuổi thọ càng cao.

Một điều khá nan giải là mặc dù ai cũng đồng ý về những tác hại của béo phì, nhưng các chuyên gia vẫn chưa nhất trí tiêu chuẩn để chẩn đoán béo phì.  Béo phì được định nghĩa là một “bệnh” với độ mỡ tích tụ đến mức độ có thể gây tác hại cho sức khỏe.  Nhưng người cao to (như người Âu Mĩ) thường có lượng mỡ cao nhiều hơn người thấp bé (người Á châu).  Do đó, vấn đề đặt ra là tỉ lệ mỡ bao nhiêu phần trăm (so với trọng lượng) được xem là có nguy hại cho sức khỏe. 

Tiêu chuẩn chẩn đoán béo phì của WHO

Lượng mỡ trong cơ thể có thể đo bằng nhiều phương pháp.  Hiện nay, phương pháp chuẩn để đo lượng mỡ là sử dụng máy X-quang song tuyến DXA (dual energy X-ray absorptiometry).  Nhưng máy này thường rất đắt tiền, và không phải bệnh viện nào cũng có được.  Do đó, thay vì đo bằng máy, các nhà khoa học tìm một cách tính gián tiếp dựa vào trọng lượng và chiều cao.  Cách tính này được nhà toán học Bỉ tên là Adolphe Quetelet phát triển vào thế kỉ 19.  Công thức của Quetelet ngày nay được biết đến dưới một cái tên là body mass index (BMI) hay chỉ số trọng lượng cơ thể.  Chỉ số này được tính bằng cách lấy trọng lượng (kg) chia cho chiều cao bình phương (m2).  Chẳng hạn như một người có trọng lượng là 60 kg và chiều cao 1.6 m, thì chỉ số BMI là: 23.4 kg/m2.

Theo khuyến cáo của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), bất cứ ai có BMI bằng hoặc cao hơn 25 kg/m2 được xem là quá cân (over-weight), và BMI bằng hoặc cao hơn 30 kg/m2béo phì (obese).  Theo cách phân loại đó, béo phì là một phần của quá cân.  Theo tiêu chuẩn này, ở Việt Nam chỉ có khoảng 3-5% dân số ở TPHCM trên 20 tuổi là “béo phì”, và khoảng 25-30% là “quá cân”.

Nhưng định nghĩa này có vấn đề.  Trọng lượng cơ thể bao gồm hai thành phần chính: lượng mỡ (fat mass) và lượng nạc (lean mass).  Do đó, nếu một vận động viên cao 1.6 m và 80 kg, với 50 kg mỡ và 27 kg nạc, có thể xem là béo phì, như một người với 27 kg nạc và 50 kg mỡ.  Nói cách khác, BMI không phân biệt được lượng nạc và mỡ, và dựa vào BMI có thể dẫn đến chẩn đoán sai lầm cho một cá nhân.  

Tiêu chuẩn chẩn đoán béo phì cho người Á châu

Ở Á châu, một số nhà nghiên cứu phàn nàn rằng tiêu chuẩn BMI ≥ 30 kg/m2 không thích hợp để chẩn đoán béo phì cho người Á châu.  Lí do mà họ đưa ra là so với người Âu Mĩ, người Á châu có lượng mỡ nhiều hơn.  Năm 1994, có một nghiên cứu từ New York (Mĩ) cho thấy nếu hai phụ nữ Á châu và Mĩ có cùng BMI thì người Á châu có tỉ lệ mỡ cao hơn người Mĩ khoảng 1-3%. 

Nghiên cứu trên có ảnh hưởng rất lớn đến quan điểm y khoa béo phì ở người Á châu.  Các chuyên gia dựa vào kết quả nghiên cứu đó mà đề nghị tiêu chuẩn BMI chẩn đoán nên thấp hơn người Âu Mĩ.  Cụ thể, họ đề nghị người Á châu có BMI bằng hoặc cao hơn 25 kg/m2 (chứ không phải 30 kg/m2) nên chẩn đoán là béo phì.  Ngay cả Tổ chức Y tế Thế giới cũng miễn cưởng chấp nhận đề nghị này. 

Nếu dựa vào tiêu chuẩn 25 kg/m2 thì có khoảng 25-30% người dân TPHCM là “béo phì”.  Nói cách khác, dựa vào tiêu chuẩn này (BMI bằng hoặc cao hơn 25 kg/m2) thì số người “béo phì” ở TPHCM gần bằng hay tương đương với tỉ lệ béo phì ở Mĩ!

Chất vấn tiêu chuẩn béo phì

Chúng tôi nghĩ rằng giả định đằng sau tiêu chuẩn chẩn đoán béo phì cho người Á châu không đúng.  Thật vậy, khi xem xét kĩ phần phương pháp trong công trình nghiên cứu năm 1994, và duyệt qua y văn, chúng tôi giả thuyết rằng tỉ lệ mỡ ở người Đông Á châu (như người Việt Nam) và người Âu Mĩ không khác nhau.

Để kiểm định giả thuyết này, chúng tôi -- gồm một nhóm nghiên cứu Việt, Mĩ và Úc -- thực hiện một nghiên cứu so sánh tỉ lệ mỡ ở phụ nữ Việt Nam và phụ nữ Mĩ [1].  Chúng tôi chọn ngẫu nhiên sao cho 2 nhóm có cùng độ tuổi và cùng BMI.  Sau đó, chúng tôi dùng máy DXA đo lượng mỡ, và so sánh tỉ lệ mỡ giữa hai nhóm phụ nữ.  Kết quả cho thấy phụ nữ Việt Nam có tỉ lệ mỡ là 35.6%, tương đương với phụ nữ Mĩ với tỉ lệ 35.8%.  Như vậy hai nhóm có cùng độ tuổi và cùng BMI, với phương pháp đo lường hiện đại nhất và chuẩn nhất, chúng tôi “chứng minh” rằng hai nhóm phụ nữ Việt và Mĩ có tỉ lệ mỡ tương đương nhau. 

Công trình nghiên cứu và kết quả của chúng tôi mới công bố trên tập san y khoa quốc tế Obesity.  Ngay sau khi công bố, nhiều báo chí và giới truyền thông quốc tế đưa tin.  Kết quả này cho thấy giả định mà giới y khoa quốc tế và WHO dựa vào trong vòng 15 năm qua là sai. Bởi vì giả định sai, cho nên ngưỡng BMI dùng để chẩn đoán béo phì cho người châu Á (BMI ≥ 25 kg/m2) cũng có thể sai.

Ngưỡng nào cho người Á châu?

Nếu ngưỡng BMI ≥ 25 kg/m2 không thích hợp cho chẩn đoán béo phì ở người Á châu, thì câu hỏi đặt ra là: ngưỡng nào là thích hợp?  Để trả lời câu hỏi đơn giản này, chúng ta cần có những nghiên cứu với hàng chục ngàn người, và phải theo dõi từ 5 đến 10 năm để biết ở lượng mỡ hay BMI bao nhiêu để có thể xác định là nguy hiểm đến tính mạng.  Ở Á châu, có rất ít những nghiên cứu qui mô và dài hạn như thế.  Vì thế, cho đến nay, chưa ai biết ngưỡng BMI hay lượng mỡ bao nhiêu là thích hợp cho chẩn đoán béo phì cho người Á châu.

Tuy nhiên, một nghiên cứu ở Đài Loan gần đây trên 36.000 người cho thấy tỉ lệ tử vong chỉ tăng cao khi BMI vượt ngưỡng 30 kg/m2.  Dựa vào kết quả nghiên cứu này và kết quả nghiên cứu của chúng tôi, tôi nghĩ rằng ngưỡng chẩn đoán béo phì cho người Á châu có lẽ tạm thời là BMI ≥ 30 kg/m2 (chử không phải là 25 kg/m2 như đa số các nước châu Á đang áp dụng hiện nay).  Trong tương lai, chúng tôi sẽ cố gắng phát triển một số giá trị tham chiếu cho việc đánh giá béo phì ở Việt Nam.

 

Chú thích:

[1] Công trình nghiên cứu của chúng tôi do Bác sĩ Hồ Phạm Thục Lan (Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch và Bệnh viện 115) chủ trì, với sự hợp tác của Giáo sư Elizabeth Barrett-Connor (Đại học California tại San Diego, Mĩ), và Viện nghiên cứu Y khoa Garvan, Đại học New South Wales, Úc.  Công trình có tựa đề “Similarity in Percent Body Fat Between White and Vietnamese Women: Implication for a Universal Definition of Obesity” đăng trên Tập san Obesity, số ra ngày 11/2/2010:

Web: www.nature.com/oby/journal/vaop/ncurrent/abs/oby201019a.html

 


200 năm Darwin
Agent Orange: collateral damage
Alexandre Yersin và Việt Nam
Bàn về hiệu quả vắcxin: lâm sàng và kinh tế
Bàn về vấn đề dịch thuật và đánh giá năng suất khoa học
Béo phì ở người Á châu
Béo phì ở trẻ em và virus
Bình luận từ Dr. Yến
Bưởi không gây ung thư vú
Bảo hiểm y tế cộng đồng
Bảo tồn môi sinh: Chiến tranh giữa hai thế giới
Bằng chứng khoa học thay vì lên lớp
Bệnh tả: không để Việt Nam thành Bangladesh thứ hai
Bệnh tật nhìn từ quan điểm của thuyết tiến hóa
Bệnh xơ hóa cơ delta qua y văn thế giới
Bổ sung kẽm và điều trị bệnh tả
Bộ gen trong cây lúa và triển vọng
Bộ Y tế phản ứng chậm với rét đậm
Chiều cao của người Việt
Chiều cao và tổng thống Mĩ
Cholesterol và bệnh Tim
Cholesterol: hung thần hay bạn?
Chuột và... các nhà khoa học
Chính sách y tế cần dựa vào bằng chứng khoa học
Chạy đua vũ khí và … dịch cúm
Chất béo, cholesterol, bệnh tim và statins: xét lại bằng chứng
Chất keo xã hội: hormones
Chất lượng nghiên cứu dịch tễ học và y tế cộng đồng của Việt Nam qua chỉ số H
Chất lượng nghiên cứu khoa học ở Việt Nam qua chỉ số trích dẫn
Chất vấn chuẩn chẩn đoán béo phì
Chế độ ăn uống với nhiều thịt động vật và nguy cơ tử vong
Chủng vi khuẩn tả hiện nay ở nước ta có phải mới xuất hiện?
Cuộc chiến hóa học phi pháp lớn nhất trong lịch sử chiến tranh
Câu chuyện y học: Leptin và béo phì
Có bao nhiêu bác sĩ viết chữ khó đọc
Có nên tập trung vào vi khuẩn E. coli ?
Có thể xảy ra đại dịch cúm gia cầm?
Công cụ đơn giản để chẩn đoán tiểu đường ở người Đông Nam Á
Cúm gia cầm và nhiễu thông tin
Cúm H1N1: biết và chưa biết
Cơ hội để khép lại một chương lịch sử đau lòng
Cần hiểu đúng về Ung thư và nguy cơ ung thư
Cần qui ước đạo đức cho kĩ nghệ thực phẩm
Cần tiêm chủng ngừa bệnh tả vùng có nguy cơ cao
Cần điều tra về chất lượng bệnh viện
Cổ phần hóa bệnh viện công và chất lượng
Cổ phần hóa: chưa phải cách duy nhất
DDT và vấn đề cân đối giữa lợi ích và nguy hiểm
Dinh dưỡng: một nguồn thuốc quí giá
DNA không nói dối, nhưng DNA có thể nói … sai
Dịch cúm gà: hoang mang và sự thật khoa học
Dịch cúm heo và tác hại kinh tế
Dịch tay-chân-miệng
Dịch tả: gọi đúng tên để phòng ngừa
Dựa vào khoa học, đừng dựa vào niềm tin!
E. coli – vài câu hỏi thông thường
Gen và bệnh tật
Ghen tuông dưới cái nhìn của tâm lí y khoa
Gian lận trong nghiên cứu khoa học: áp lực kinh tế và cơ chế bình duyệt
GIÁO DỤC ĐẠI HỌC: KHƠI DẬY VÀ NUÔI DƯỠNG TÍNH HAM HỌC
Giải nobel y học hay sinh lí học 2007 và lợi ích cho người bệnh
Giải Nobel Y sinh học 2008 và những tranh chấp khoa học
Giải Nobel y sinh học 2010 vinh danh người đem niềm vui cho người vô sinh
Giải Nobel y sinh học năm 2005: Một cõi đi về với vi khuẩn
Giải Nobel y sinh học: Nhìn lại quãng đường 100 năm
Giải phẫu ghép mặt và vấn đề y đức
Gout ở xương sống
Gãy xương và tử vong: một vấn nạn y tế cộng đồng
Hiệu quả vắcxin có nghĩa gì?
Hoa vàng mấy độc
Hàm lượng đạm trong sữa “siêu thấp” hay “siêu cao”?
Hóa chất khai hoang trong cuộc chiến Viện Nam: Qui mô và tầm ảnh hưởng
Hướng đi nào để giải quyết vấn đề chất độc da cam ở Việt Nam
Hậu “mắm tôm được minh oan”: bằng chứng khoa học, nhà xí và nghiên cứu
Hệ Thống Học Vị Và Học Hàm Khoa Học Ở Vài Nước Tây Phương
Hợp tác khoa học kiểu nhảy dù - Nguyễn Văn Tuấn
Khi bác sĩ trẻ “khoe” quá nhiều
Khoa học và ngụy khoa học: một vài đặc điểm và khác biệt cần biết
Khoa học, xã hội, và rủi ro
Không thể thành Phù Đổng trong 20 năm!
Khẩu trang và phòng chống cúm A/H1N1
Kiểm định giả thuyết mắm tôm và vi khuẩn tả
Liều lượng melamine bao nhiêu là an toàn?
Lí lịch sinh học của heo và dấu vết văn minh nông nghiệp Đông Nam Á
Lượng giá mạng sống con người
Lợi ích của vitamin D
Miệng nhà quan
Mắm tôm có phải là “thủ phạm” gây bệnh tả? Xét lại bằng chứng khoa học
Mắm tôm và chuyện xin lỗi
Mắm tôm và dịch tả: phân biệt yếu tố nguy cơ và nguyên nhân
Mắm tôm vô tội!
Mắm tôm, nguyên nhân và hệ quả
Mối quan hệ giữa giới y khoa và kĩ nghệ dược
Mối quan hệ giữa giới y khoa và kĩ nghệ dược
Một bệnh hiếm X-linked recessive hypoparathyroidism
Một lần đi phỏng vấn
Một năm nhìn lại
Một phán quyết thiếu cơ sở khoa học
Một vài hiểu lầm tai hại
Một vài ngộ nhận về nghiên cứu khoa học
Một vài vấn đề về qui định chức danh giáo sư ở Việt Nam
Một vụ Madoff trong y khoa: Lại một ngôi sao y khoa rơi rụng!
Mỡ trắng, mỡ nâu
Mỡ  trong máu, huyết áp, và  tiểu đường
Nghiên cứu y học ở Việt Nam: Đặc điểm, thiếu sót, và sai sót
Nghiên cứu y học ở Việt Nam: Đặc điểm, thiếu sót, và sai sót
Nguyên nhân bệnh tiêu chảy
Ngó trên tay điếu thuốc đã lụi dần
Người cao tuổi và sự hạn chế của y khoa
Người ăn chay có mật độ xương như người ăn mặn
Người ăn chay có mật độ xương như người ăn mặn
Nhân chuyện dịch tả nhớ lại John Snow
Nhân câu chuyện điện não đồ xét nghiệm nghiện ma túy:
Nhân năm khỉ_nguồn gốc con người hiện đại
Nhân năm Tý bàn chuyện thí nghiệm trên chuột
Nhìn lại khoa học Việt Nam năm 2008 qua công bố quốc tế
Nhầm lẫn trong y khoa: Khá phổ biến, nhưng ít ai biết!
Những câu hỏi và trả lời về dịch gia cầm
Những sai sót khó tin nhưng có thật
Những sai sót nguy hiểm trong toa thuốc
Những điều khó tin về “Bảy điều khó tin nhất trong y học”
Năm lí do cho mắm tôm “vô tội”
Phán quyết sau cùng: Chất béo không ảnh hưởng đến ung thư và bệnh tim
Phát hiện gien kiểm soát ráy tai: vài bài học về mò kim đáy biển
Phòng chống bệnh phải dựa vào bằng chứng khoa học!
Phòng chống H1N1 bằng rửa tay và khẩu trang: Biện pháp nào hiệu quả hơn?
Qui định cấp giấy phép lái xe dựa vào chiều cao và cân nặng: thiếu cơ sở khoa học và kì thị giới tính
Qui định cấp giấy phép lái xe dựa vào chiều cao: vấn đề giả định và bằng chứng khoa học
Quyền phê phán và trí thức
Quyền được tiếp cận hồ sơ bệnh án
Quản lý chất lượng: Thuốc phòng "tai nạn y khoa"
Rửa tay bằng xà phòng và tiêu chảy
Serotonin có liên quan đến chứng đột tử
Suy dinh dưỡng ở trẻ em: vấn đề của kinh tế
Sàng lọc trẻ sơ sinh trên phạm vi toàn quốc
Tai nạn y khoa trong bệnh viện
Thế nào là một "bài báo khoa học"
Thế nào là “Cơ sở khoa học” ?
Thịt chó là nguyên nhân của bệnh tiêu chảy cấp tính?
Thịt chó và bệnh tả: nguyên nhân và yếu tố nguy cơ
Tiên lượng bệnh Alzheimer bằng protein expression ?
Tiêu chuẩn chất lượng giáo dục đại học
Tiêu chuẩn chẩn đoán béo phì cho người Việt - Nguyễn Văn Tuấn
Tiêu chuẩn chẩn đoán bệnh đái tháo đường (diabetes mellitus)
Tiêu chuẩn đề bạt giáo sư: Có nên căn cứ vào số lượng bài báo ?
Tiêu chảy cấp tính và bệnh tả: Định danh cho đúng
Truy tìm ung thư bằng mammography từ tuổi 50
Truyền thông và khoa học: Qui ước Ingelfinger
Truyền thông và y tế
Truyền thông, khoa học và … doanh nghiệp
Trà xanh và sức khỏe
Trách nhiệm và nhân đạo trong vấn đề chất độc da cam
Trái chanh và phòng chống bệnh tả
Trả lời những câu hỏi liên quan đến loãng xương
Trọng lượng cơ thể và tử vong ở người Trung Quốc: Ý nghĩa về việc xác định tiêu chuẩn chẩn đoán béo phì
Tuổi thọ của người dân giảm 10 năm ?
Tác dụng Placebo trong y học: Tâm lí và ý nghĩa
Tình yêu, sắc đẹp nhìn dưới quan điểm di truyền học
Tín hiệu môi trường từ những “làng ung thư”
Tính khoa học và minh bạch đằng sau xét nghiệm doping
Tại sao không phát biểu về nguyên nhân và hệ quả ?
Tại sao uống rượu gây đỏ mặt và nguy cơ ung thư thực quản
Tạo sinh vô tính và cái chết của Thượng đế
Tạo sinh vô tính và vấn đề sinh đạo đức
Tản mạn về SARS
Tỉ lệ tử vong do cúm heo là bao nhiêu ?
Tự trị, chất lượng và y đức thay vì cổ phần hóa bệnh viện công
Ung thư vú và vấn đề thông tin y khoa
Uống bia hấp dẫn muỗi
Vaccine phòng chống AIDS hiệu quả đến đâu ?
Vaccine phòng chống cúm A/H1N1
Vi khuẩn gây tiêu chảy và ý nghĩa tiêm chủng
Vi khuẩn tả trong chó ?
Viết văn có thể chữa nhiều loại bệnh
Viết văn và trị liệu
Việc ta, ta cứ làm!
Vài nhận xét về 12 điều lệ y đức của Việt Nam
Vài thông tin cần biết về các chương trình truy tìm ung thư vú
Vài đóng góp quan trọng của người Việt khoa học thống kê
Văn hóa khoa học
Văn hóa tranh luận và vấn đề ngụy biện
Vấn đề sinh tố: kẽm và đồng
Vấn đề truy tìm ung thư phổi và hiệu quả 
Vấn đề y đức trong nghiên cứu tế bào mầm (stem cells)
Vấn đề đo lường melamine
Vấn đề đào tạo tiến sĩ: kinh nghiệm từ Australia
Vắc-xin phòng chống ung thư cổ tử cung
Vắcxin ngừa viêm gan B: cẩn thận với “nhiễu thông tin”
Vắcxin ngừa viêm gan B: kinh nghiệm từ nước ngoài
Vắcxin phòng bệnh sởi - quai bị - Rubella: lợi và hại
Vắcxin phòng chống ung thư cổ tử cung: hiệu quả lâm sàng và kinh tế
Vắcxin phòng ngừa bệnh tả: rất cần thiết
Về chấn chỉnh đào tạo tiến sĩ: Công bố bài báo khoa học là một thách thức lớn ?
Về học vị tiến sĩ
Về một sự hiểu lầm thuật ngữ "prospective"
Về phản ứng phụ của bisphosphonates liên quan đến hoại tử xương hàm và rung nhĩ
Vệ sinh như là một loại hàng hóa
Vị thế của nền khoa học Việt Nam
Xung quang xì căng đan về nghiên cứu tế bào mầm
Xã hội hóa và an toàn thực phẩm
Xếp hạng đại học: cần minh bạch hóa phương pháp
Y học hiện đại và những hứa hẹn
Y học thực chứng: vài nét khái quát
Y Khoa và những nhầm lẫn chết người
Y tế dự phòng: nền tảng của y khoa hiện đại
Y đức và nghiên cứu y học
Ói mửa, cao huyết áp và hôn mê
Ăn chay như là một trị liệu
Ăn chay và loãng xương
Điều trị bệnh dựa vào màu da ?
Điều trị đau dây thần kinh tọa bằng phẫu thuật: không có hiệu quả
Đo lường hiệu suất khoa học
Đánh giá đúng tầm quan trọng của ung thư vú 
Đại dịch H1N1
Đại dịch và đại dịch ảo
Đại dịch đã đến ?
Đạo văn trong hoạt động khoa học
Đậu nành và sức khỏe: đâu là thực và đâu là giả
Đậu nành và sức khỏe: đâu là thực và đâu là giả
Đằng sau những con số hàm lượng đạm trong sữa
Đế quốc Trà
Đề bạt các chức danh khoa bảng: vài kinh nghiệm từ Úc
Đọc lại 12 điều y đức của Việt Nam
Đồi điều về sữa nhiễm melamine
Đừng quên melamine trong các thực phẩm khác!
Ước vọng 200 ?
“Kỹ năng mềm” cho nhà khoa học
“Sẽ” và “có thể”


Trang nhiều tác giả
Trang riêng của Lê Ngọc Dũng
Trang riêng của Lương Lễ Hoàng
Trang riêng của Nguyễn Bảo Trung
Trang riêng của Nguyễn Hoài Nam
Trang riêng của Nguyễn Hữu Đức
Trang riêng của Nguyễn Văn Tuấn
Trang riêng của Nguyễn Ý Đức
Trang riêng của Nguyễn Đình Nguyên
Trang riêng của Phan Xuân Trung
Trang riêng của Đỗ Hồng Ngọc
Trang riêng của Đỗ Minh Tuấn