NGUYỄN VĂN TUẤN

Kiểm định giả thuyết
mắm tôm và vi khuẩn tả

Nguyễn Văn Tuấn

            Dù chưa có cơ sở khoa học, các giới chức y tế hiện nay khẳng định mắm tôm là nguồn bộc phát bệnh tả.  Tiêu biểu cho quan điểm này là phát biểu của một quan chức cao cấp trong ngành y tế: “mặc dù chưa khẳng định được nguồn gốc của khuẩn”, nhưng “khẳng định vi khuẩn tả xuất phát từ thực phẩm, không chỉ mắm tôm mà bất cứ thực phẩm nào”.  Chúng ta hãy tạm thời gọi đây là“giả thuyết mắm tôm – vi khuẩn tả”.  Đã là giả thuyết thì cần phải được kiểm định một cách nghiêm chỉnh.  Nếu kết quả kiểm định phù hợp với bằng chứng thì chúng ta chấp nhận giả thuyết đó; nếu không, chúng ta có lí do để bác bỏ giả thuyết đó.

Trong một một bài viết hôm qua, chúng tôi đã trình bày các bằng chứng sinh học để cho thấy rằng mắm tôm không thể là môi trường thuận lợi cho phát triển của vi khuẩn tả V. cholerae.  Cụ thể hơn, vi khuẩn tả không thể tồn tại trong môi trường nồng độ muốn lên đến 15-30% trong mắm tôm hay môi trường “yếm khí” (thiếu không khí) của mắm tôm.  Ngoài ra, ngay cả nếu vi khuẩn tả V. cholerae “may mắn” sống sót đến tay người ăn thịt chó, thì với một lát chanh thì vi khuẩn cũng không sống nổi.  Nói tóm lại, bằng chứng sinh học cho thấy mắm tôm không thể hàm chứa vi khuẩn tả.

            Nhưng đó là bằng chứng mang tính lí thuyết.  Chúng ta cần bằng chứng xét nghiệm thực tế.  Chúng ta không biết lượng mắm tôm ngoại cộng đồng bị nhiễm là bao nhiêu.  Nhưng chúng ta có thể lấy mẫu để xét nghiệm và từ đó suy luận cho cộng đồng / quần thể.  May mắn thay, các cơ quan y tế đã làm việc này.  Kết quả có thể tóm lược như sau:

  • Hà Nội, Viện Vệ sinh dịch tễ Trung ương đã xét nghiệm 50 mẫu mắm tôm lấy từ nhiều nơi, và kết quả 50 mẫu đều âm tính với vi khuẩn tả V. cholerae.
  • Một cách độc lập, ở Thành phố Hồ Chí Minh, Trung tâm Y tế dự phòng xét nghiệm 24 mẫu mắm tôm, mắm nêm bán tại siêu thị, các chợ và các quán ăn trên địa bàn thành phố, và tất cả đều có kết quả âm tính với vi khuẩn tả V. cholerae.
  • Nói tóm lại, hai lần xét nghiệm độc lập nhau đều cho ra một kết quả: 100% các mẫu mắm tôm đều âm tính.  Nói cách khác, 100% mẫu mắm tôm đều không có nhiễm vi khuẩn gây bệnh tả. 

Những kết quả này cung cấp cho chúng ta tín hiệu gì?  Nếu mắm tôm bị nhiễm vi khuẩn tả (hãy tạm thời cho rằng tỉ lệ nhiễm là 0,15 hay 15%), thì xác suất mà chúng ta quan sát được ít nhất một mẫu mắm tôm có kết quả dương tính trong số 74 mẫu xét nghiệm là 0,9999.  Điều này, có nghĩa là nếu 15% mắm tôm ngoài cộng đồng bị nhiễm, thì có thể nói rằng trong số 74 mẫu phải có ít nhất 1 mẫu có kết quả dương tính.

            Lật lại vấn đề: nếu thật sự trong cộng đồng có 15% lượng mắm tôm bị nhiễm vi khuẩn tả, thì chúng ta cần xét nghiệm bao nhiêu mẫu để có thể quan sát ít nhất 1 mẫu có kết quả dương tính?  Câu trả lời là 30 mẫu (chứ không cần đến 74 mẫu)!

Ngoài ra, có thể ứng dụng mô hình phản nghiệm (falsificationism) để kiểm định giả thuyết về mối liên quan giữa mắm tôm và vi khuẩn tả.  Cụ thể hơn, nếu giả thuyết (của Bộ Y tế) cho rằng mắm tôm bị nhiễm khuẩn là đúng thì câu hỏi đặt ra là xác suất mà chúng ta quan sát 0/74 kết quả dương tính là bao nhiêu. 

Xin nhắc lại: chúng ta không biết bao nhiêu mẫu mắm tôm bị nhiễm khuẩn tả.  Chúng ta chỉ có thể lấy mẫu, xét nghiệm, và suy luận cho quần thể.  Câu hỏi định lượng đặt ra là: nếu Bộ Y tế tin rằng 15% lượng mắm tôm ở Việt Nam nhiễm khuẩn, thì xác suất mà chúng ta có kết quả 0% dương tính với vi khuẩn tả là bao nhiêu.  Theo qui ước khoa học, nếu xác suất này thấp hơn 5%, chúng ta bác bỏ giả thuyết mắm tôm – vi khuẩn tả. 

Để trả lời câu hỏi này, Gọi p là tỉ lệ mắm tôm nhiễm khuẩn ngoài cộng đồng.  hãy tạm thời cho p = 0,15 (tức 15%).  Câu hỏi trên có thể giải bằng cách ứng dụng luật phân phối nhị phân (binomial probability distribution).  Theo luật phân phối này, xác suất mà chúng ta quan sát k kết quả dương tính trong số n mẫu được xét nghiệm với xác suất p là:

Tuy công thức mới nhìn qua thì có vẻ “đe dọa”, nhưng kì thật rất đơn giản.  Có thể tính toán bằng Excel hay R rất dễ dàng.  Trong trường hợp của ta, p = 0,15, n = 74, và k = 0.  Do đó, công thức trên đơn giản thành:

Nói cách khác, nếu quả thật 15% lượng mắm tôm bị nhiễm vi khuẩn tả, thì xác suất mà chúng ta quan sát 0 kết quả dương tính rất thấp, chỉ 6 phần triệu!  Do đó, bằng chứng về kết quả xét nghiệm bác bỏ giả thuyết mắm tôm – khuẩn tả một cách dễ dàng. 

            Chúng ta có thể tính xác suất 0/74 dương tính cho từng giá trị (giả thuyết) của p.  Bảng sau đây cung cấp cho chúng ta xác suất quan sát 9 kết quả dương tính cho từng giá trị của p.  Ngay cả nếu p = 0,05 (tức 5% lượng mắm tôm trong cộng đồng bị nhiễm khuẩn tả), xác suất mà chúng ta có kết quả 0 dương tính cũng chỉ 0.022 hay 2,2%.  Nói cách khác, giả thuyết mắm tôm – khuẩn tả không phù hợp với bằng chứng thực tế.  

Nếu tỉ lệ nhiễm khuẩn trong mắm tôm ngoài cộng đồng (p) là

Thì xác suất mà chúng ta quan sát k=0 kết quả dương tính từ n=74 mẫu là

0,05

0,022

0,10

0,000411

0,20

0,000006

0,30

0,00000017

0,40

0,(16 số 0)67

            Yếu tố Bayes.  Một cách khác để kiểm định giả thuyết mắm tôm – vi khuẩn tả là tính yếu tố Bayes (còn gọi là Bayes Factor, hay BF).  Một cách đơn giản, BF là tỉ số của hai hàm số khả dĩ (likelihood function) cho hai giả thuyết.  Gọi

  • H0 là giả thuyết mắm tôm không bị nhiễm vi khuẩn tả (p = 0)
  • H1 là giả thuyết mắm tôm không bị nhiễm vi khuẩn tả (p = 0,10 hay 0,15, hay bất cứ giá trị nào lớn hơn 0)

Chúng ta đặt câu hỏi: nếu H0 đúng, xác suất mà chúng ta quan sát 0 kết quả dương tính từ 74 lần xét nghiệm là bao nhiêu?  Tương tự, nếu H1 đúng, xác suất mà chúng ta quan sát 0 kết quả dương tính từ 74 lần xét nghiệm là bao nhiêu?  Viết theo ngôn ngữ toán:

Trong đó P(data | p=0)có nghĩa là đáp số cho câu hỏi thứ nhất, và P(data | p>0) là đáp số cho câu hỏi thứ hai.  Nếu BF = 1, chúng ta có thể nói số liệu (bằng chứng) chẳng nghiêng về giả thuyết nào cả; nếu BF > 1, chúng ta có thể nói bằng chứng thực tế nghiêng về giả thuyết H0; và nếu BF < 1, bằng chứng thực tế nghiêng về giả thuyết H1.

            Bây giờ, chúng ta thử ứng dụng lí thuyết BF trên vào số liệu mà các quan chức y tế thu thập được.  Xin nhắc lại, trong số n = 74 xét nghiệm, k = 0 kết quả dương tính.  Do đó:

và với giả thuyết H1, chúng ta tạm thời cho p = 0,1 (10% mẫu nhiễm vi khuẩn tả):

Do đó:

            Tức là, bằng chứng thực tế (0/74 dương tính) nghiêng về giả thuyết H0 (mằm tôm không nhiễm vi khuẩn tả) đến 2432 lần!  Chúng ta có thể tính BF cho các xác suất theo giả thuyết H1 khác nhau trong bảng sau đây:

Nếu giả thuyết mắm tôm bị nhiễm vi khuẩn tả với p là

Thì bằng chứng thực tế (0/74 dương tính) nghiêng về giả thuyết H0 (mắm tôm không nhiễm vi khuẩn tả) là:

0,01

2,1

0,05

44,5

0,10

2432

0,20

14.836.825

0,30

290.231.829.160

0,40

Không cần tốn thì giờ tính tiếp!

            Nói tóm lại, dù tính bằng phương pháp kiểm định giả thuyết hay bằng yếu tố Bayes, bằng chứng thực tế cho thấy giả thuyết mắm tôm bị nhiễm vi khuẩn tả là giả thuyết không tưởng (hay không có khả năng xảy ra). 

Tuy nhiên, các quan chức y tế cho rằng vì kĩ thuật xét nghiệm ở Việt Nam chưa tốt, nên họ muốn gửi các mẫu mắm tôm đến một cơ sở xét nghiệm “tiên tiến” hơn.  Chúng ta phải hỏi tại sao lại tập trung nhân lực và tiền bạc vào việc truy tìm vi khuẩn tả trong mắm tôm, trong khi bằng chứng sinh học và số liệu thực tế cho thấy giả thuyết mắm tôm – vi khuẩn tả là không tưởng.

            (Cách làm việc này làm tôi liên tưởng đến chính phủ Mĩ trong cuộc chiến xâm lăng Iraq vừa qua.  Mĩ tố cáo Iraq có vũ khí hủy diệt hàng loạt; Iraq chối không có.  Mĩ đòi vào khám xét, nhưng vẫn không tìm thấy vũ khí.  Không có thì phải tìm cho có: Mĩ quyết định tấn công Iraq, và vẫn không tìm thấy vũ khí hủy diệt hàng loạt, nhưng thay vào đó là hàng trăm ngàn người dân bỏ mạng.)

            Nếu xem vi khuẩn tả là “vũ khí”, cuộc truy tìm vi khuẩn tả trong mắm tôm của các quan chức y tế có xu hướng giống như Mĩ tìm vũ khí hủy diệt hàng loạt ở Iraq.  Ban đầu họ “tố cáo” mắm tôm có “vũ khí”, nhưng mắm tôm không nói được.  Họ quyết định kéo mắm tôm ra xét nghiệm, vẫn không thấy “vũ khí”.  Mắm tôm vì không nói được nên vẫn … chịu trận.  Nay họ đòi đem mắm tôm ra ngoài Việt Nam để tìm cho được “vũ khí”.  Nếu kết quả ở Iraq là một bài học gián tiếp nào đó, thì giới sản xuất, phân phối, và tiêu dùng mắm tôm sẽ chịu thiệt thòi một thời gian. 

            Đã đến lúc chúng ta nên sử dụng bằng chứng khoa học, thay vì ý chí, trong vấn đề mắm tôm và vi khuẩn tả.  Bằng chứng khoa học nói cho chúng ta biết cần làm sạch nguồn nước, vệ sinh gia đình và môi trường, và tiêm chủng cho những đối tượng cho nguy cơ cao mắc bệnh tả (như trẻ em và người già đang sống trong vùng lũ lụt) mà Tổ chức Y tế Thế giới đã khuyến cáo.

Bản hiệu đính 15/11/07

Ghi thêm

[1]  Trong R, chúng ta có thể sử dụng hàm dbinorm(k, n, p) để tính xác suất quan sát được k kết quả dương tính trong số n mẫu xét nghiệm với tỉ lệ [theo giả thuyết] nhiễm là p.  Chẳng hạn như để tính BF cho Bảng 2, chúng ta chỉ đơn giản lệnh:

dbinom(0, 74, 0)/dbinom(0, 74, 0.05)

[2]  Thật ra, các ước tính trên đây vẫn còn … cao.  Trong thực tế, không phải 74/74 đều có kết quả âm tính với vi khuẩn tả, mà là 32 mẫu mắm tôm ở Thanh Hóa và 35 mẫu mắm tôm ở Hải Phòng, Hải Dương, Hà Nội, Nghệ An và Thanh Hoá cũng đều có kết quả âm tính với các vi khuẩn Salmonella, Staphylococcus Aureus, E.Coli, Vibrio Cholera, Vibrio Parahomoliticus.  Tính chung, đã có 138/138 mẫu đều không có nhiễm vi khuẩn tả.  Thiết tưởng với một kết quả như thế, chúng ta không cần phải tốn thêm thời gian và tiền bạc để đi tìm cái không thể tìm được vì xác suất mà vi khuẩn tồn tại là 0.

 

 


200 năm Darwin
Agent Orange: collateral damage
Alexandre Yersin và Việt Nam
Bàn về hiệu quả vắcxin: lâm sàng và kinh tế
Bàn về vấn đề dịch thuật và đánh giá năng suất khoa học
Béo phì ở người Á châu
Béo phì ở trẻ em và virus
Bình luận từ Dr. Yến
Bưởi không gây ung thư vú
Bảo hiểm y tế cộng đồng
Bảo tồn môi sinh: Chiến tranh giữa hai thế giới
Bằng chứng khoa học thay vì lên lớp
Bệnh tả: không để Việt Nam thành Bangladesh thứ hai
Bệnh tật nhìn từ quan điểm của thuyết tiến hóa
Bệnh xơ hóa cơ delta qua y văn thế giới
Bổ sung kẽm và điều trị bệnh tả
Bộ gen trong cây lúa và triển vọng
Bộ Y tế phản ứng chậm với rét đậm
Chiều cao của người Việt
Chiều cao và tổng thống Mĩ
Cholesterol và bệnh Tim
Cholesterol: hung thần hay bạn?
Chuột và... các nhà khoa học
Chính sách y tế cần dựa vào bằng chứng khoa học
Chạy đua vũ khí và … dịch cúm
Chất béo, cholesterol, bệnh tim và statins: xét lại bằng chứng
Chất keo xã hội: hormones
Chất lượng nghiên cứu dịch tễ học và y tế cộng đồng của Việt Nam qua chỉ số H
Chất lượng nghiên cứu khoa học ở Việt Nam qua chỉ số trích dẫn
Chất vấn chuẩn chẩn đoán béo phì
Chế độ ăn uống với nhiều thịt động vật và nguy cơ tử vong
Chủng vi khuẩn tả hiện nay ở nước ta có phải mới xuất hiện?
Cuộc chiến hóa học phi pháp lớn nhất trong lịch sử chiến tranh
Câu chuyện y học: Leptin và béo phì
Có bao nhiêu bác sĩ viết chữ khó đọc
Có nên tập trung vào vi khuẩn E. coli ?
Có thể xảy ra đại dịch cúm gia cầm?
Công cụ đơn giản để chẩn đoán tiểu đường ở người Đông Nam Á
Cúm gia cầm và nhiễu thông tin
Cúm H1N1: biết và chưa biết
Cơ hội để khép lại một chương lịch sử đau lòng
Cần hiểu đúng về Ung thư và nguy cơ ung thư
Cần qui ước đạo đức cho kĩ nghệ thực phẩm
Cần tiêm chủng ngừa bệnh tả vùng có nguy cơ cao
Cần điều tra về chất lượng bệnh viện
Cổ phần hóa bệnh viện công và chất lượng
Cổ phần hóa: chưa phải cách duy nhất
DDT và vấn đề cân đối giữa lợi ích và nguy hiểm
Dinh dưỡng: một nguồn thuốc quí giá
DNA không nói dối, nhưng DNA có thể nói … sai
Dịch cúm gà: hoang mang và sự thật khoa học
Dịch cúm heo và tác hại kinh tế
Dịch tay-chân-miệng
Dịch tả: gọi đúng tên để phòng ngừa
Dựa vào khoa học, đừng dựa vào niềm tin!
E. coli – vài câu hỏi thông thường
Gen và bệnh tật
Ghen tuông dưới cái nhìn của tâm lí y khoa
Gian lận trong nghiên cứu khoa học: áp lực kinh tế và cơ chế bình duyệt
GIÁO DỤC ĐẠI HỌC: KHƠI DẬY VÀ NUÔI DƯỠNG TÍNH HAM HỌC
Giải nobel y học hay sinh lí học 2007 và lợi ích cho người bệnh
Giải Nobel Y sinh học 2008 và những tranh chấp khoa học
Giải Nobel y sinh học 2010 vinh danh người đem niềm vui cho người vô sinh
Giải Nobel y sinh học năm 2005: Một cõi đi về với vi khuẩn
Giải Nobel y sinh học: Nhìn lại quãng đường 100 năm
Giải phẫu ghép mặt và vấn đề y đức
Gout ở xương sống
Gãy xương và tử vong: một vấn nạn y tế cộng đồng
Hiệu quả vắcxin có nghĩa gì?
Hoa vàng mấy độc
Hàm lượng đạm trong sữa “siêu thấp” hay “siêu cao”?
Hóa chất khai hoang trong cuộc chiến Viện Nam: Qui mô và tầm ảnh hưởng
Hướng đi nào để giải quyết vấn đề chất độc da cam ở Việt Nam
Hậu “mắm tôm được minh oan”: bằng chứng khoa học, nhà xí và nghiên cứu
Hệ Thống Học Vị Và Học Hàm Khoa Học Ở Vài Nước Tây Phương
Hợp tác khoa học kiểu nhảy dù - Nguyễn Văn Tuấn
Khi bác sĩ trẻ “khoe” quá nhiều
Khoa học và ngụy khoa học: một vài đặc điểm và khác biệt cần biết
Khoa học, xã hội, và rủi ro
Không thể thành Phù Đổng trong 20 năm!
Khẩu trang và phòng chống cúm A/H1N1
Kiểm định giả thuyết mắm tôm và vi khuẩn tả
Liều lượng melamine bao nhiêu là an toàn?
Lí lịch sinh học của heo và dấu vết văn minh nông nghiệp Đông Nam Á
Lượng giá mạng sống con người
Lợi ích của vitamin D
Miệng nhà quan
Mắm tôm có phải là “thủ phạm” gây bệnh tả? Xét lại bằng chứng khoa học
Mắm tôm và chuyện xin lỗi
Mắm tôm và dịch tả: phân biệt yếu tố nguy cơ và nguyên nhân
Mắm tôm vô tội!
Mắm tôm, nguyên nhân và hệ quả
Mối quan hệ giữa giới y khoa và kĩ nghệ dược
Mối quan hệ giữa giới y khoa và kĩ nghệ dược
Một bệnh hiếm X-linked recessive hypoparathyroidism
Một lần đi phỏng vấn
Một năm nhìn lại
Một phán quyết thiếu cơ sở khoa học
Một vài hiểu lầm tai hại
Một vài ngộ nhận về nghiên cứu khoa học
Một vài vấn đề về qui định chức danh giáo sư ở Việt Nam
Một vụ Madoff trong y khoa: Lại một ngôi sao y khoa rơi rụng!
Mỡ trắng, mỡ nâu
Mỡ  trong máu, huyết áp, và  tiểu đường
Nghiên cứu y học ở Việt Nam: Đặc điểm, thiếu sót, và sai sót
Nghiên cứu y học ở Việt Nam: Đặc điểm, thiếu sót, và sai sót
Nguyên nhân bệnh tiêu chảy
Ngó trên tay điếu thuốc đã lụi dần
Người cao tuổi và sự hạn chế của y khoa
Người ăn chay có mật độ xương như người ăn mặn
Người ăn chay có mật độ xương như người ăn mặn
Nhân chuyện dịch tả nhớ lại John Snow
Nhân câu chuyện điện não đồ xét nghiệm nghiện ma túy:
Nhân năm khỉ_nguồn gốc con người hiện đại
Nhân năm Tý bàn chuyện thí nghiệm trên chuột
Nhìn lại khoa học Việt Nam năm 2008 qua công bố quốc tế
Nhầm lẫn trong y khoa: Khá phổ biến, nhưng ít ai biết!
Những câu hỏi và trả lời về dịch gia cầm
Những sai sót khó tin nhưng có thật
Những sai sót nguy hiểm trong toa thuốc
Những điều khó tin về “Bảy điều khó tin nhất trong y học”
Năm lí do cho mắm tôm “vô tội”
Phán quyết sau cùng: Chất béo không ảnh hưởng đến ung thư và bệnh tim
Phát hiện gien kiểm soát ráy tai: vài bài học về mò kim đáy biển
Phòng chống bệnh phải dựa vào bằng chứng khoa học!
Phòng chống H1N1 bằng rửa tay và khẩu trang: Biện pháp nào hiệu quả hơn?
Qui định cấp giấy phép lái xe dựa vào chiều cao và cân nặng: thiếu cơ sở khoa học và kì thị giới tính
Qui định cấp giấy phép lái xe dựa vào chiều cao: vấn đề giả định và bằng chứng khoa học
Quyền phê phán và trí thức
Quyền được tiếp cận hồ sơ bệnh án
Quản lý chất lượng: Thuốc phòng "tai nạn y khoa"
Rửa tay bằng xà phòng và tiêu chảy
Serotonin có liên quan đến chứng đột tử
Suy dinh dưỡng ở trẻ em: vấn đề của kinh tế
Sàng lọc trẻ sơ sinh trên phạm vi toàn quốc
Tai nạn y khoa trong bệnh viện
Thế nào là một "bài báo khoa học"
Thế nào là “Cơ sở khoa học” ?
Thịt chó là nguyên nhân của bệnh tiêu chảy cấp tính?
Thịt chó và bệnh tả: nguyên nhân và yếu tố nguy cơ
Tiên lượng bệnh Alzheimer bằng protein expression ?
Tiêu chuẩn chất lượng giáo dục đại học
Tiêu chuẩn chẩn đoán béo phì cho người Việt - Nguyễn Văn Tuấn
Tiêu chuẩn chẩn đoán bệnh đái tháo đường (diabetes mellitus)
Tiêu chuẩn đề bạt giáo sư: Có nên căn cứ vào số lượng bài báo ?
Tiêu chảy cấp tính và bệnh tả: Định danh cho đúng
Truy tìm ung thư bằng mammography từ tuổi 50
Truyền thông và khoa học: Qui ước Ingelfinger
Truyền thông và y tế
Truyền thông, khoa học và … doanh nghiệp
Trà xanh và sức khỏe
Trách nhiệm và nhân đạo trong vấn đề chất độc da cam
Trái chanh và phòng chống bệnh tả
Trả lời những câu hỏi liên quan đến loãng xương
Trọng lượng cơ thể và tử vong ở người Trung Quốc: Ý nghĩa về việc xác định tiêu chuẩn chẩn đoán béo phì
Tuổi thọ của người dân giảm 10 năm ?
Tác dụng Placebo trong y học: Tâm lí và ý nghĩa
Tình yêu, sắc đẹp nhìn dưới quan điểm di truyền học
Tín hiệu môi trường từ những “làng ung thư”
Tính khoa học và minh bạch đằng sau xét nghiệm doping
Tại sao không phát biểu về nguyên nhân và hệ quả ?
Tại sao uống rượu gây đỏ mặt và nguy cơ ung thư thực quản
Tạo sinh vô tính và cái chết của Thượng đế
Tạo sinh vô tính và vấn đề sinh đạo đức
Tản mạn về SARS
Tỉ lệ tử vong do cúm heo là bao nhiêu ?
Tự trị, chất lượng và y đức thay vì cổ phần hóa bệnh viện công
Ung thư vú và vấn đề thông tin y khoa
Uống bia hấp dẫn muỗi
Vaccine phòng chống AIDS hiệu quả đến đâu ?
Vaccine phòng chống cúm A/H1N1
Vi khuẩn gây tiêu chảy và ý nghĩa tiêm chủng
Vi khuẩn tả trong chó ?
Viết văn có thể chữa nhiều loại bệnh
Viết văn và trị liệu
Việc ta, ta cứ làm!
Vài nhận xét về 12 điều lệ y đức của Việt Nam
Vài thông tin cần biết về các chương trình truy tìm ung thư vú
Vài đóng góp quan trọng của người Việt khoa học thống kê
Văn hóa khoa học
Văn hóa tranh luận và vấn đề ngụy biện
Vấn đề sinh tố: kẽm và đồng
Vấn đề truy tìm ung thư phổi và hiệu quả 
Vấn đề y đức trong nghiên cứu tế bào mầm (stem cells)
Vấn đề đo lường melamine
Vấn đề đào tạo tiến sĩ: kinh nghiệm từ Australia
Vắc-xin phòng chống ung thư cổ tử cung
Vắcxin ngừa viêm gan B: cẩn thận với “nhiễu thông tin”
Vắcxin ngừa viêm gan B: kinh nghiệm từ nước ngoài
Vắcxin phòng bệnh sởi - quai bị - Rubella: lợi và hại
Vắcxin phòng chống ung thư cổ tử cung: hiệu quả lâm sàng và kinh tế
Vắcxin phòng ngừa bệnh tả: rất cần thiết
Về chấn chỉnh đào tạo tiến sĩ: Công bố bài báo khoa học là một thách thức lớn ?
Về học vị tiến sĩ
Về một sự hiểu lầm thuật ngữ "prospective"
Về phản ứng phụ của bisphosphonates liên quan đến hoại tử xương hàm và rung nhĩ
Vệ sinh như là một loại hàng hóa
Vị thế của nền khoa học Việt Nam
Xung quang xì căng đan về nghiên cứu tế bào mầm
Xã hội hóa và an toàn thực phẩm
Xếp hạng đại học: cần minh bạch hóa phương pháp
Y học hiện đại và những hứa hẹn
Y học thực chứng: vài nét khái quát
Y Khoa và những nhầm lẫn chết người
Y tế dự phòng: nền tảng của y khoa hiện đại
Y đức và nghiên cứu y học
Ói mửa, cao huyết áp và hôn mê
Ăn chay như là một trị liệu
Ăn chay và loãng xương
Điều trị bệnh dựa vào màu da ?
Điều trị đau dây thần kinh tọa bằng phẫu thuật: không có hiệu quả
Đo lường hiệu suất khoa học
Đánh giá đúng tầm quan trọng của ung thư vú 
Đại dịch H1N1
Đại dịch và đại dịch ảo
Đại dịch đã đến ?
Đạo văn trong hoạt động khoa học
Đậu nành và sức khỏe: đâu là thực và đâu là giả
Đậu nành và sức khỏe: đâu là thực và đâu là giả
Đằng sau những con số hàm lượng đạm trong sữa
Đế quốc Trà
Đề bạt các chức danh khoa bảng: vài kinh nghiệm từ Úc
Đọc lại 12 điều y đức của Việt Nam
Đồi điều về sữa nhiễm melamine
Đừng quên melamine trong các thực phẩm khác!
Ước vọng 200 ?
“Kỹ năng mềm” cho nhà khoa học
“Sẽ” và “có thể”


Trang nhiều tác giả
Trang riêng của Lê Ngọc Dũng
Trang riêng của Lương Lễ Hoàng
Trang riêng của Nguyễn Bảo Trung
Trang riêng của Nguyễn Hoài Nam
Trang riêng của Nguyễn Hữu Đức
Trang riêng của Nguyễn Văn Tuấn
Trang riêng của Nguyễn Ý Đức
Trang riêng của Nguyễn Đình Nguyên
Trang riêng của Phan Xuân Trung
Trang riêng của Đỗ Hồng Ngọc
Trang riêng của Đỗ Minh Tuấn